THÍCH THANH BÌNH
Nhà xuất bản Phương Đông
LỜI NÓI ĐẦU
Tác phẩm Triết học có và không của Phật giáo Ấn Độ mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung tác giả chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng có (bhava) và không (Sunyata) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thân thiết của học thuyết này. Vì để chủ đề trình bày được rõ ràng, cho nên trong tác phẩm này, cũng đã thêm vào một số bài nghiên cứu về sự dị biệt giữa giáo lý Duyên khởi, 12 nhân duyên và 6 nhân 4 duyên; giáo lý Trung đạo và luận thuật về khái niệm không của thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, nhằm giúp độc giả có thêm cơ sở để hiểu rõ về tư tưởng có và không của Phật giáo Bộ phái và Đại thừa.
Thông thường chúng ta biết, “có” là hệ tư tưởng của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin) thuộc thời kỳ Phật giáo bộ phái, và “không” là hệ tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên hai hệ tư tưởng này không phải tự nhiên mà có, và lẽ tất nhiên có sự liên hệ băt` nguồn từ Phật giáo nguyên thủy, vì ở thời kỳ này, phật giáo chủ trương thảo luận những vấn đề mang tính siêu hình, như thế giới là thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, thân và mạng là một hay khác, Như Lai sau khi nhập Niết bàn còn hay mất…Chính những vấn đề không được Phật giáo trả lời, điều đó chình là nguyên nhân dẫn đến thời kỳ Phật giáo bộ phái, một trong những nhân tố chủ yếu dẫn đến thời kỳ Phật giáo Bộ phái. Đầu tiên phái Độc Tứ bộ (Vatsiputriva) công khai chủ trương ‘Ngã pháp hằng hữu’ (Pugala), gần như mang ý nghĩa cho là xác thân và linh hồn không bị mất. Chủ trương này không được phái Hóa Địa bộ (Mahisasaka) không đồng tình, cho nên chủ trương ‘Quá khứ và vị lai là không thật, chỉ có hiện tại vô vi là thật có’. Hữu bộ (Saravastivada) không đồng tình cả hai phái này, phủ nhận hai học thuyết trên và đưa ra quan điểm ‘Ba thời gian là quá khứ hiện tại và vị lai là có thật, đồng thời bản chất của các pháp là không bị mất đi, vĩnh viễn tồn tại’ hay nói cách khác, phái này cho rằng, thời gian và không gian là có thật. Tuy nhiên, quan điểm tư tưởng này, dù gì đi nữa, trong ấy ẩn tàng ý nghĩa mâu thuẫn với giáo lý Duyên khởi vô thường vô ngã của đức Phật. Do vậy, đây chính là động cơ để hình thành hệ tư tưởng ‘không’ của Phật giáo Đại thừa.
Không (Sunyata) mà Phật giáo Đại thừa đề cập, nó không đồng nghĩa là hư không, trống không, không có gì cả, nó cũng không mang ý nghĩa ‘nếu vô tâm đối với vạn vật thì vạn vật cũng không’ như người Trung Quốc đã lý giải tư tưởng không của Phật giáo Đại thừa, mà chữ ‘không’ này mang ý nghĩa: Sự tồn tại của mọi vật như dòng chày, không đứng yên, không có tướng nhất định. Trạng thái đó không thể gọi là ‘có’ cũng không thể gọi là ‘không’; có những cái có đó mang tính huyễn hóa, cho nên Bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) gọi là giả danh (Prajnapti); không những không phải là không có, cho nên gọi là ‘không tánh’ (S. sanyata, P.sunnata). Đây chính là ý nghĩa chữ ‘không’ trong Phật giáo Đại thừa.
Những tác phẩm nghiên cứu về chủ đề này, viết bằng ngoại ngữ thì có khá nhiều, nhưng viết bằng tiếng Việt đã có nhưng rất ít, nhất là tác phẩm chuyên đề nghiên cứu về phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ thì lại càng giới hạn, hay nói đúng hơn là không có. Đây cũng chính là động lực để tác phẩm này đến độc giả, nó chỉ mang tính gợi ý, tạo sự kích thích cho sự nghiệp nghiên cứu Phật học được chú ý, nhất là Phật giáo Bộ phái.
Điểm đặc thù trong tác phẩm này, tác giả rất chú trọng đến văn bản học, khi trình bày vấn đề gì đều có dẫn chứng và chú thích rõ ràng, đồng thời phương pháp sử học để phân tích mối quan hệ trước sau, theo quá trình phát triển của Phật giáo Ấn Độ, và vay mượn phương pháp ngôn ngữ học để đối chiếu so sánh và lý giải những vấn đề dị biệt giữa nguyên bản và dịch bản, khi xuất hiện nghi vấn.
Sự ra đời tác phẩm này, nhằm giúp cho người nghiên cứu Phật học có thêm nguồn tư liệu và ý kiến, để độc giả rộng đường suy tư và tìm hiểu giá trị của lịch sử.
Cuối cùng xin cảm ơn HT. Thích Trí Lãng trụ trì Đạo tràng Pháp Hoa Đa Bảo, vùng San Jose, TT. Thích Minh Dung trụ trì chùa Quang Thiện, vùng Ontario, Cali, và TT. Thích Phước Ân khai sơn trụ trì Quan Âm Buddhist Monastery, New Zealand cùng chư Phật tử đã tán trợ một phần nào đó cho việc học tập và nghiên cứu của tác giả trong thời gian tu họctại Taiwan.
Đài Bắc, ngày 14 tháng 12 năm 2007
THÍCH HẠNH BÌNH
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: GIÁO LÝ DUYÊN KHỞI
I. Nội dung và ý nghĩa giáo lý Duyên khởi
1. Duyên khởi là pháp được đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề
2. Ý nghĩa pháp Duyên khởi
3. Duyên khởi là chân lý của thế gian
4. Ai thấy pháp Duyên khởi, người ấy thấy Phật
5. Duyên khởi là đạo lý phản bác tư tưởng sáng tạo của Phạm Thiên
II. Nội dung và ý nghĩa giáo lý 12 Nhân duyên
III. Kết luận
Chương II: GIÁO LÝ TRUNG ĐẠO
I Không rơi vào hai cực đoan: Dục lạc và khổ hạnh là Trung đạo
II. Không chấp hai cực đoan: Có và không là Trung đạo
III Đệ nhất nghĩa không là Trung đạo
IV Duyên khởi là Trung đạo
V Lìa nhị biên là Trung đạo
VI. Kết luận
Chương III: Ý NGHĨA CHỮ KHÔNG TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
I. Không chỉ cho trạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy về cuộc sống gia đình
II. Không chỉ cho các pháp vốn là sự giả hợp
III. ‘Đệ nhất nghĩa không’ là cơ sở để phát triển thành tư tưởng ‘Không’ của Phật giáo Đại thừa
IV. Kết luận
Chương IV: TƯ TƯỞNG CỦA PHÁI HỮU BỘ
I. Dẫn luận
II. Tư liệu
III. Tư tưởng
1. Tam thế hữu
2. Bản thể của các pháp là thật có
IV. Kết luận
Chương V: TƯ TƯỞNG KHÔNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
I. Dẫn luận
II. Khái quát về bối cảnh lịch sự trước khi tư tưởng ‘không’ xuất hiện
III. Tư tưởng ‘không’ trong hệ Bát Nhã
1. Tư liệu
2. Tư tưởng
V. Kết luận
PHỤ LỤC: “ Mối quan hệ giữa hai hệ thống triết học Có và Không trong Lịch sử Phật Giáo Ấn Độ”.
BÁT CHÁNH ĐẠO Con đường đến hạnh phúc
|
Cẩm nang viết Khảo luận Luận văn Luận Án
|
Đức Phật và Phật Pháp
|