PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC
TRẦN QUANG THUẬN
NXB TÔN GIÁO
LỜI NÓI ĐẦU
Phật giáo truyền vào Trung quốc từ đời vua Ai Đế (6TCN) cuối đời Tiền Hán, nhưng Văn học Phật giáo thời Hậu Hán mới dần dần xuất hiện. Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bộ kinh đầu tiên được hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch sang tiếng Trung Hoa vào đời vua Minh Đế (58 scn). Suôt thời gian gần 200 năm từ thời Minh Đế nhà Hậu Hán đến đời Huệ Đế nhà Tây Tấn ( ( 290), chư Tăng hoằng truyền đạo Phật tại Trung Quốc chuyên dịch kinh sách. Người Hán tin Phật đầu tiên Sở là Vương, anh em khác mẹ của Minh Đế. Người Hán đầu tiên xuất gia góp phần dịch kinh sách là Nghiêm Phật Điều. Người thọ giới Cụ túc (Tỳ kheo) đầu tiên là Chu Sĩ Hành. Ngôi chùa đầu tiên là Bạch Mã Tự tại Lạc Dương, tình Hà Nam. Người dịch kinh nổi tiếng nhất là Cưu Ma La Thập (344-413), lấy kinh thành Tràng An làm trung tâm hoằng đạo miền Bắc, giữ chức Quốc sư, ngài Tuệ Viễn (344-416) chủ trương Sa Môn Bất bái Quốc Vương, lãnh đạo Phật giáo phương Nam, lấy núi lư Sơn u tịch làm trung tâm tu học, nghiêm trì giới luật, cảm hóa vua quan Nam Triều, Chu Sĩ Hằng đời Tam quốc là người đầu tiên đến Ấn Độ cầu pháp, đến đời Đông Tấn những vị sư nổi tiếng đi Ấn Độ học đạo là ngài Pháp Hiển, Trí Nghiên và Bảo Vân. Giáo đoàn Phật giáo Trungn Hoa trưởng thành dưới đời Đông Tấn; vào thời Tây Tấn số lượng tăng ni chỉ có 3.700 vị sống trong 180 ngôi chùa. Đến đời Đông Tấn, tăng ni lên đến 24.000, chùa cảnh 1.768 ngôi chưa kể Phật giáo ở phương Băc. Giáo đoàn của ngài Phật Đồ Trừng, Thích Đạo An, Cưu Ma La Thập và Tuệ Viễn là quan trọng hơn cả. Vị vua mộ đạo nhất của Trung Hoa là Lương Võ Đế (502-547).
Để có thể điều hành tăng chúng ngày càng đông một cách có hiệu quả, ngài Đạo an tập ba phương thức căn bản để chúng tăng dựa vào đó mà hành trì: 1/ Hành hương, tọa thiền; 2/ Sáu công phu; 3/ Sám hối, Bồ tát. Ngài Tuệ Viễn lập Bạch liên Xã dựa vào 3 quy chế: 1/ Pháp Xã Tiết Độ Tự; 2/ Ngoại Tự tăng Tiết Độ Tự; 3/ Tỳ kheo Ni Tiết độ Tự. Ngoài ra còn đặt các chức chưởng như Đại Thống hay Sa Môn Thống, Tăng Chính, Duyệt Chúng, Tăng Lục. tại Quận, huyện có Quận Thống hay Duy Na để điều khiển và lãnh đạo chúng tăng. Tại mỗi chùa có vị Thượng tọa làm chủ chùa, các chức vụ Duy Na, Tự Vụ v.v… để điều hành công việc chùa. Giáo đoàn Phật giáo từ nam Bắc Triều , qua đời Tùy và về sau tuy được các triều đình nâng đỡ, nhưng đồng thời bị đặt trong vòng kềm tỏa của các vương triều . Vì muốn vượt ngoài vòng cương tỏa của các vua quan, ngài Tuệ Viễn chủ trương Sa Môn Bất Bái Quốc Vương. Tinh thần độc lập đáp ứng nhu cầu thời đại này vể sau trở thành đặc tính tự cao, tự đại của một số tăng ni, làm mất ý nghĩa nguyên thủy và làm cách biệt giữa hàng Tăng già và Cư sĩ.
Để có thể bảo tồn kinh sách trong thời mạt pháp, những nhà sư trung Hoa như Tinh Uyển đời Tùy cho khắc Tam Tạng kinh điển vào đá ở núi Phong Sơn gọi là Phong Sơn Thạch Kinh và danh tăng Linh Dụ đời đời Bắc Tề khắc kinh vào đá ở núi Bảo Sơn, tỉnh Hà Nam gọi là Bảo Sơn Thạch Kinh.
Lòng thành khẩn cung kính Tam Bảo, biết ơn Tam Bảo đã được thể hiện trên các bức tượng khắc vào đá trong những hang động, như Động Đôn Hoàng (Thiên Phật Động, núi Sa Minh, tỉnh Cam Túc). Động Vân Cương ngoài thành Đại Đồng, tỉnh Tây Sơn; Động Long Môn, núi Long Môn, tỉnh Hà Nam; Động Thiên Long Sơn, và Ương Đường Sơn , tỉnh Sơn Tây.
Phật giáo thời Tây Tấn lấy phiên dịch làm chính, nhưng đến đời Đông Tấn không những chú trọng phiên dịch mà còn nghiên cứu phát triển giáo nghĩa, không còn dựa vào danh từ và tư tưởng Lão Trang để giải thích làm tối và làm sai giáo nghĩa Phật đà. Ngài Đạo An là người tiên phong xử dụng ngôn từ Phật học để giải thích Phật pháp. Trong thời kỳ này các tông phái Phật giáo Trung Hoa ra đời: tỳ Đàm Tông, dựa vào kinh A Hàm và Tiểu Thừa A Tỳ Đàm, chủ trương Tam Thế thực hữu, Pháp thế hằng hữu của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ; Đại Thừa Không Tông dựa vào kinh Bat Nhã chủ trương ngã, pháp đểu không; tam Luận Tông dựa vào ba bộ luận; Trung Luận, Bách Luận và Thập nhị Môn Luận của Đại thừa Phật giáo do Cưu Ma La Thập dịch, chủ trương “phá tà hiển chánh”…
Phật giáo muốn là nhịp cầu, làm gạch nối giữa hai nền văn hóa Đông, Tây như đã làm vào thời Nam Bắc Triều. Phật giáo muốn đóng góp sức mình trong nhiệm vụ lắp bằng hố sâu giai cấp, đển mọi người, mọi thành phần khi đến với Phật giáo muốn phục hưng vai trò trách nhiệm của mình đối với dân, với nước tước đây vào thời nhà Tùy thiết lập Niết bàn Chúng, Đại Luận Chúng, Giảng Luật Chúng, và Thập Địa Chúng với sự huân luyện đặc biệt cho sự hoằng truyền Chánh pháp, hành trì Phật đạo, cho công tác y tế, xã hội phát triển cộng đồng, trồng cây bên đường, làm nhả rẻ tiền cho dân. Phật giáo muốn phục hồi tinh thần tương duyên để cho người dân nhận rõ hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc cộng đồng…bao nhiêu hoài bão bao nhiêu tâm tình nhưng sự băng hoại của Phật giáo Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 không còn đủ sức chuyên chở thông điệp truyền thống, không đủ sức kháng cự làn sóng văn minh Abraham đang ngự trị trên đất Trung Hoa và trên toàn thế giới hiện nay. Phật giáo Trung Hoa đang trải qua một giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử Trung Quốc.
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ
LỞI MỞ ĐẦU
Phần một: PHẬT HÓA TRUNG QUỐC (65-1900)
Chương I : TƯ TƯỞNG VÀ XÃ HỘI TRUNG HOA DƯỚI THỜI HÁN ( 206 tcn - 220)
Chương 2: NHỮNG GIAI ĐOẠN CHUYỂN HÓA
Phần hai: CƠ SỞ HÀNH TRÌ VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Chương 3: CƠ SỞ HÀNH TRÌ: CHỦA CÔNG, CHÙA TƯ, PHÂN VIỆN, HẠ VIỆN
Chương 4: HỆ THỐNG TỔ CHỨC (TỪ ĐẠI ĐƯỜNG KHẨU) – THIÊN ĐƯỜNG ./ NIỆM PHẬT ĐƯỜNG (ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN)
Chương 5: HỆ THỐNG TỔ CHỨC II: KHÁCH ĐƯỜNG, TRỊ SỰ ĐƯỜNG, Y BÁT ĐƯỜNG
Phần ba: NHÂN SỰ
Chương 6: HỆ THỐNG, CẤP BẬC, TUYỂN DỤNG, ĐÀO TẠO
Chương 7: PHƯƠNG TRƯỢNG: QUYỀN HẠN, ĐIỀU KIỆN, CÁCH TUYỂN CHỌN
Chương 8: CHÚNG TĂNG
Chương 9: ĐỜI SỐNG VÀ SỰ NGHIỆP TĂNG SĨ
Chương 10: CƯ SĨ TẠI GIA
Phần bốn: SINH HOẠT PHẬT SỰ
Chương 11: NGHI LỄ CÚNG KÍNH
Chương 12: KINH TẾ TỰ VIỆN
Phần năm: THAY LỜI KẾT
Chương 13: ĐẶC TÍNH TỔ CHỨC VÀ HÀNH TRÌ PHẬT ĐẠO TẠI TRUNG QUỐC
Phụ lục:
PHỤ LỤC 1: SỐ LƯỢNG TĂNG NI
2: SỐ LƯỢNG CHÙA CHIỀN
3: 48 CHỨC VỤ TRONG CHÙA
4: CAO TĂNG, HỌC GIẢ NGOẠI QUỐC, TRUNG HOA HOẲNG ĐẠO VÀ PHIÊN DỊCH TAM TẠNG RA CHỮ HÁN
5: CAO TĂNG NGOẠI QUỐC ĐẾN TRUNG QUỐC HOẰNG ĐẠO ( SẮP THEO QUỐC ĐỘ
DANH TỪ ĐỐI CHIẾU
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN VÀ THAM KHẢO
BÁT CHÁNH ĐẠO Con đường đến hạnh phúc
|
Cẩm nang viết Khảo luận Luận văn Luận Án
|
Đức Phật và Phật Pháp
|