KINH NA TIÊN TỲ KHEO
CAO HỮU ĐÍNH soạn thuật
Minh Đức in lần thứ nhất 1971
SàiGon Vietnam
LỜI GIỚI THIỆU
Na Tiên tỳ-kheo Kinh là một bộ kinh phản ảnh đầy đủ những đưòng nét chính yếu của Giáo lý. Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì kinh này chỉ là một bản trùng-tuyên vô vị, không đáng được có một địa vị trong Tam tạng Thánh Giáo.
Đặc sắc của kinh này dĩ nhiên không phải ở chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Đặc sắc của nó chính là ở những ví dụ rất khế cơ và khế cơ mà ngài Na Tiên khéo xử dụng để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý căn bản của Phật giáo Nguyên thủy. Các ví dụ rất linh động ấy hoàn toàn do ngài sáng chế để đóng góp vào Chánh Pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau thêm.
Kinh này xuất hiện vào thời kỳ nào? Căn cứ vào tiểu sử của vua Di lan-đà, ngưòi mà Na Tiên đã đối thoại và trực tiếp giáo hóa, thì Na Tiên sống vào tiền bán thế kỷ II truớc tây lịch. Cuộc đối thại về giáo lý giữa thầy (Na tiên) và trò (Di -lan-đà), nếu xét sâu về nội dung thì thấy quả thật là thú vị và hấp dẫn. Vì vậy nội dung đối thoại này bây giờ được truyền tụng rộng rãi trong quần chúng, và về sau được ghi chép lại mà biên soạn lại thành một quyển kinh, được các giới Phật tử tôn thờ dần ngan hành với các kinh do kim khẩu Phật nói ra. Cũng nên biết rằng, đặc biệt với Phật Giáo Miến Điện, kinh này được nhiếp thâu vào Tiểu Bộ Kinh tức tức bộ kinh thư năm trong ngũ bộ kinh của giáo điển Nguyên thủy. Vậy niên đại xuất hiện của kinh nảy, sớm nhất vào khoảng thế kỷ I trước tây lịch. Và nời chốn xuất hiện đầu tiên hẳn phải là miền Tây Bắc Ấn Độ, trên luư vực Ngũ Hả, nơi xảy ra cuộc đối thoại ấy.
Riêng Na tiên Tỳ Kheo truyền qua Trung Hoa cũng đã có 3 bản dịch khác nhau. Cả 3 bản đầu mất tên ngưòi dịch nên không rõ là dịch vào thời kỳ nào. Chỉ thấy là Đại tạng ghi là “Phụ Đông Tân Lục”văn dịch rất xưa và hơi tối nghĩa. Căn cứ vào đó ta có thể suy đoán rằng các bản dịch này có lẽ đã được thực hiện vào khoảng đời Tam Quốc hay đời Tây Ấn, nghĩa là khi Phật giáo mới du nhập Trung Hoa.
Nay nhân đạo hữu Cao Hữu Đính phụ trách dạy kinh này tại Phật Học Viện Nha Trang, đạo hữu bèn gia công sưu khảo nghiên cứu , nhằm mục đích làm sáng tỏ thêm nghĩa Kinh. Ông căn cứ vào cả hai bản - nhất là bản 1670B- rồi tham chiếu với kinh Milindapahha của Phật Giáo Nam Phưong và bản dịch Pháp văn kinh này, soạn thành bài học dạy cho học tăng ở Phật Học Viện Trung Phần tại Nha Trang do tôi điều khiển.
Xét thấy phần đầu, tức duyên khởi của kinh Milindapahha và Na Tiên Tỳ-kheo kinh, hai bên không giống nhau, nên đạo hữu đã cho lướt qua , đợi tham cứu sau. Thay vào đó, ông viết “một lời nói đầu” ghi lại tiểu sử vua Di-lan-đà và nagì Na Tiên cùng bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Nội dung đối thoại thì giữ lại trọn vẹn và gắng diễn dịch thế nào trung thành với ý kinh. Trong trưòng hợp gặp những câu mà cách hành văn quá xưa, hoặc gặp những danh từ mà nay đã biến nghĩa, đạo hữu đã tùy nghi châm chế để cải đổi chút đỉnh, để độc giả dễ dàng lãnh hội ý nghĩa chính.
đọc hết loạt bài của đạo hữu biên soạn, tôi lấy làm vừa ý, nên vội cho xuất bản, hầu mong cung cấp món ăn Giáo lý cần thiết cho Phật tử bốn phương.
vậy xin có mấy lời giới thiệu chư Phật tử và thiện hữu tri thức hằng lưu tâm đến tiền đồ Phật giáo nước nhà.
Nay kính
Nha Trang, Thu Canh Tuất P.L 2514 (1970)
GIÁM VIỆN
PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN
Hòa Thưọng THÍCH THÍ THỦ
MỤC LỤC
Lởi giới thiệu của HT Thích Thí Thủ
Lời nói đầu
PHẦN ĐỐI THOẠI (nội dung)
1. Vô ngã hay danh
2. Số
3. Cách nói chuyện của hiền giả và vưong
4. Di-lan-đà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung
5. Cứu cánh đích thực của bậc xuất gia
6. Nguyên nhân luân hồi và phưong pháp giải thoát
7. Pháp lành
8. Tưong quan giữa thân trước và thân sau
9. Tự biết tái sanh
10. Trí và minh
11. Đắc đạo rồi có còn đau khổ không?
12. Vui khổ thiện và bất thiện
13. Danh thân tái sanh
14. Đã hỏi rồi không nên hỏi lại
15. Danh thân tương liên
16. Thời gian
17. Đầu mối của sanh từ
18. Nhân duyên sanh
19. Linh hồn
20. Liên hệ giữa căn và tâm thần
21. Xúc
22. Cảm thọ
23. Giác
24. Sở niệm
25. Nội động
26. Nỗi lòng
27. Muối
28. Duyên nghiệp của tri giác
29. Nguyên nhân bất bình đẳng giữa loài người
30. Phải sớm làm điều lành
31. Lửa địa ngục
32. Nước dựa trên không khí
33. Niết Bàn
34. Phật có ra đời
35. Phật là tối thắng
36. Thân cũ không tái sanh
37. Thân mất việc làm còn
38. Không thể biết quả báo về sau
39. Niết bàn ở đâu
40. Vì sao sa môn săn sóc cái thân
41. Vì sao Phật không giống cha mẹ
42. Chơi chữ
43. Ai truyền giới cho Phật
44. Giọt nước mắt lành
45. Mệ ngộ khác nhau
46. Trí nhớ
47. Mưòi sáu cách nhớ
48. Phật là đấng toàn giác
49. Nhân ít quả nhiều
50. Ngừa giặc khi giặc chưa đến
51. Thần thông chẳng quản xa gần
52. Cùng đến một lượt
53. Bảy sự việc tựu thành giác ngộ
54. Việc làm lành nhỏ được phước lớn
55. Kẻ trí làm dữ ít bị tai vạ hơn người ngu
56. Bay lên không trung
57. Xương dài bốn ngàn dặm
58. Ngưng hơi thở
59. Biển
60. Tri tuệ soi thấu tất cả
61. Thần hồn, trí và thức
62. Phật làm được việc khó làm
LỜI CUỐI CÙNG