38 PHÁP HẠNH PHÚC
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NAM
Soạn giả:
Maha Thong Kham Medhivongs
PHẬT LỊCH 2513 DƯƠNG LỊCH 1969
Lời nói đầu
Tôi có phát nguyện từ lâu là phải sửa chửa quyển kinh 38 PHÁP AN LÀNH đã ấn tống năm 1961 vì nhiều nguyên nhân.
1) Trước kia là những bài thuyết pháp của tôi về AN LÀNH có in bằng Ronéo, Đại Đức Hộ Giác nhận thấy hữu ích cho người tu Phật, nên ngài hỏi ý kiến tôi để ấn tống; trong lúc ấy tôi chưa làm hoàn toàn những bài pháp An lành sau cùng, từ XXXIII đến pháp XXXVIII, nên Đại Đức Hộ Giác vui lòng soạn giúp những An lành còn bỏ dở ấy.
Khi tôi có thời giờ nhàn rổi xem lại, tôi thấy những bài pháp tôi đã soạn không được rõ ràng và sót rất nhiều, chẳng hạn như không thấy rõ quả báo của mỗi pháp An lành.
2) Có nhiều Ông bà có nhã ý muốn tôi làm sao viết lại thành một quyển kinh hơn là những thời pháp, và trình bày Pháp An Lành theo kệ ngôn của Đức Thế Tôn, vì trước kia tôi thuyết để hồi hướng cho một, hai vị thiện tín, nên tùy theo nhân duyên của mỗi vị.
3) Hơn nữa tôi cũng có ý định tự chúng tôi ấn tống để làm lễ pháp thí để hồi hướng đến các bậc hữu ân của chúng tôi, mà cũng là một nhân giúp quí vị cần tham cứu Phật giáo trong muôn một.
4) Và nhân tiện đây tôi cũng đổi tên quyển 38 điều An Lành là 38 Pháp Hạnh Phúc vì tôi sửa chửa toàn bộ.
5) Sở dĩ mà quyển 38 Pháp Hạnh Phúc được ấn tống và bố thí là do nơi một nhóm thiện nam tín nữ phát bồ đề tâm muốn ấn tống một quyển kinh để bố thí ngày rằm tháng bảy Phật lịch 2513 (1969). Quí ông nầy đến yêu cầu tôi xin cho ấn tống một quyển nào tùy tôi định. Tôi có hai bổn, nhưng quí ông muốn được một quyển dày ít lắm cũng ba trăm trang, tôi không thể làm sao viết cho kịp chỉ vỏn vẹn một thời gian một tuần. Tôi thấy tấm lòng trong sạch của quí ông nên tôi phải cố hết sức mình để sửa chửa cho xong quyền "38 PHÁP HẠNH PHÚC" nầy để quý ông được toại nguyện.
6) Do nhờ phước báu của sự cố gắng sưu tầm quyển kinh nầy, tôi xin hồi hướng phước báu nầy thấu đáo đến các bực hữu ân của chúng tôi, quí ông có tâm trong sạch xin ấn tống quyển kinh nầy và tất cả chư Thiên, Phạm Thiên, chư Thiện Tín cùng chúng sanh trong thế giới nầy được đắc kỳ sở nguyện.
7) Xin hồi hướng phước báo nầy đến Ông Giáo sư THUẦN PHONG vì ông không nài cực nhọc hy sinh ngày giờ quí báo của ông sửa chửa chính tả cũng như văn phạm. Tôi nguyện cầu cho ông được vạn sự như ý.
Tác giả
Maha Thongkham MEDHIVONGS
Viết xong mùa Đông năm 1967
(Phật lịch 2510) tại Vạn Tượng
Mục Lục
KỆ NGÔN I
HẠNH PHÚC I: Không nên thân cận với người ác
II: Thân cận với bực Thiện Tri Thức
III: Cúng dường đến bực đáng cúng dường
KỆ NGÔN II
HẠNH PHÚC IV: Ở trong xứ nên ở
V: Tánh cách người có việc làm lành để dành trong khi trước
VI: Giữ mình theo lẽ chánh
KỆ NGÔN III
HẠNH PHÚC VII: Học nhiều hiểu rộng
VIII: Có nghề
IX: Học thông được luật
X: Người nói lời ngay thật
KỆ NGÔN IV
HẠNH PHÚC XI: Nết hạnh phụng dưỡng mẹ cha
XII: Nết hạnh tiếp độ con
XIII: Tiếp độ vợ
XIV: Làm xong việc làm của mình
KỆ NGÔN V
HẠNH PHÚC XV: Nết hạnh bố thí
XVI: Hành theo pháp
XVII: Giúp đỡ quyến thuộc
XVIII: Nết hạnh làm những việc vô tội
KỆ NGÔN VI
HẠNH PHÚC XIX: Nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi
XX: Thu thúc sự uống rượu
XXI: Sự không dễ duôi trong các pháp
KỆ NGÔN VII
HẠNH PHÚC XXII: Sự tôn kính các bực đáng tôn kính
XXIII: Nết hạnh khiêm nhượng
XXIV: Tri túc vui thích trong của đã có
XXV: Nết hạnh biết ơn người
XXVI: Nết hạnh tùy thời nghe pháp
KỆ NGÔN VIII
HẠNH PHÚC XXVII: Nhẫn nại
XXVIII: Nết hạnh người để dạy
XXIX: Nết hạnh được thấy, được gặp các vị Sa Môn
XXX: Tánh các biện luận Phật Pháp theo thời
KỆ NGÔN IX
HẠNH PHÚC XXXI: Sự cố đoạn tuyệt điều ác
XXXII: Hành Phạm Hạnh
XXXIII: Nết hạnh thấy các Pháp Diệu Đế
XXXIV: Nết hạnh làm cho thấy rõ Niết Bàn
KỆ NGÔN X
HẠNH PHÚC XXXV: Tâm không xao động vì pháp thế gian
XXXVI: Không có sự uất ức
XXXVII: Dứt khỏi sự phiền não
XXXVIII: Lòng tự tại