Tìm Sách

Luận Tạng >> Luận Đại Trí Độ


Xem tại thư viện

Thông tin tra cứu

  • Tên sách : Luận Đại Trí Độ
  • Tác giả : Nagarjuna (Long Thọ)
  • Dịch giả : Thích Thiện Siêu
  • Ngôn ngữ : Việt
  • Số trang : 830
  • Nhà xuất bản : Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt nam
  • Năm xuất bản : 1997
  • Phân loại : Luận Tạng
  • MCB : 12010000008213
  • OPAC :
  • Tóm tắt :

LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ

Tác Giả: NAGARJUNA (LONG THỌ)

Dịch Phạn ra Hán: CƯU MA LA THẬP

Dịch Hán ra Việt : THÍCH THIỆN SIÊU

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

Tập 1

Trọn Bộ 4 Tập

 

LỜI NÓI ĐẦU

Kinh Bát-Nhã (Prajna) được lưu hành rất sớm tại Ấn độ. Khoảng 700 năm sau khi Phật diệt độ (cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III Tây lịch), lúc Bồ-tát Long Thọ (Nagarjuna) ra đời đã có hai bộ kinh Bát-Nhã hoàn thiện là Tiểu Phẩm Bát Nhã, còn gọi là Bát-Nhã 8.000 bài tụng (Astasàhasrikà - Prajnãpàramità) gồm 10 cuốn 29 Phẩm và bộ Đại Phẩm Bát-Nhã 25.000 bài tụng (Pancavimsati - Sàhasrikà - Prajnãpàramita) gồm 27 hay 30, 40 cuốn 9 Phẩm.

Bồ-tát Long Thọ viết luận giải thích kinh Đại Phẩm Bát-Nhã đề tên là Maha Prajnãpàramità sastra, gồm có 100 cuốn 90 Phẩm.

Năm 402 Tây lịch, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập (Kumarajva) đến Trung hoa dịch kinh Đại Phẩm Bát-Nhã ra Hán văn đề là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa kinh (tương đương Hội thứ hai trong kinh Đại Bát-nhã của ngài Huyền Trang dịch) và dịch Luận Maha Prajnãpàramità ra Hán văn tên là Đại Trí Độ luận hay Đại Trí Độ kinh luận, Trí luận, Đại luận, gồm 100 cuốn 90 Phẩm, từ Phẩm Tựa Đầu cho đến Phẩm Chúc Lụy cuối.

Có hai thể luận là Tôn Luận và Thích Luận. Lấy một ý nào trong Kinh nêu làm tôn chỉ rồi diễn dịch, hệ thống thành luận gọi là Tôn Luận, như luận Thập Nhị Môn, Trung luận, Du Già Sư Địa luận v.v… Còn viết luận giải thích Kinh như luận Đại Trí Độ gọi là Thích Luận.

Căn cứ theo luận Đại Trí Độ thì trong 90 Phẩm, 66 Phẩm đầu của Kinh là nói về Bát-nhã đạo, còn 24 Phẩm sau của Kinh là nói về Phương tiện đạo. Nếu căn cứ theo sách Đại Phẩm Kinh Nghĩa Lược Tự của ngài Cát Tạng thì trong 90 Phẩm của Kinh, 6 Phẩm đầu Phật nói cho hạng thượng căn như Xá-lợi-phất v.v… Phẩm thứ 7 đến Phẩm thứ 14 Phật sai ngài Tu-bồ-đề nói cho hàng trung căn; từ Phẩm 45 đến Phẩm 90 là Phật nói cho hàng hạ căn như chư thiên, loài người.

Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già; dẫn dụng nhiều Kinh sách bao hàm cả kinh A-hàm, luận A-tỳ-đàm của các Bộ phái, các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy-ma-cật, A-di-đà, luôn cả tư tưởng của phái Thắng luận… Cho nên ví nó như là một bộ Phật Giáo Bách Khoa Toàn Thư.

Tác phẩm của Bồ-tát Long Thọ có nhiều như Trung luận, Thập Nhị Môn luận, Đại Trí Độ luận, Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, Bồ-đề Tư lương luận, Hồi Tránh luận v.v… nhưng trong đó chủ yếu nhất phải kể là Trung luận và luận Đại Trí Độ. Ở Trung luận thì nhấn mạnh về mặt giảng lý chơn không, còn ở luận Đại Trí Độ giải thích kinh Đại Phẩm Bát-nhã thì nhấn mạnh về mặt thuyết giảng lý thật tướng diệu hữu. Không thấu triệt tính chơn không của hiện hữu thì hữu ấy là vọng hữu, thấu triệt được tính chơn không của hiện hữu thì hữu ấy là diệu hữu.

Tư tưởng "Không" của Bát-nhã là cốt gạt bỏ mọi quan niệm vọng tưởng cố định, luôn luôn nhìn thế giới theo hai mặt (nhị biên) là sinh diệt, có không, thường đoạn, một khác, hữu biên, vô biên v.v… Vì vậy mà chơn tánh của thế giới bị bóp méo, bị che lấp. Chỉ có thể nói chơn tánh của thế giới là không, là vô tướng, không sanh không diệt, không đi không lại, không có không không v.v… trong đó không có thể thêm vào một thuộc tánh nào nữa được

Đễ thấu triệt "Không tánh" ấy người ta thường theo hai lối quán là Tích không quán và Thể không quán. Quán pháp phân tích thấy các pháp không tự có mà phải do nhân duyên hòa hợp mới có, có một cách giả tạo, trống rỗng, không có thật tánh; như vậy gọi là Tích không quán. Nếu không thông qua sự quán sát phân tích nhân duyên, mà chỉ thể nhận trực tiếp "Không tính" thấy sự vật như thấy trăng dưới nước, bóng trong gương v.v…; như vậy gọi là Thể không quán.

Bát-nhã chứng chơn không, không phải là dùng tư tưởng để hư vô hóa sự vật, hư vô hóa thế giới, mà là để thấy rõ thật tánh của sự vật, của thế giới là Không. Dù cho khi ta đang do vọng tưởng thấy sự vật có thì tánh nó vẫn là Không, một cái Không tuyệt đối, không vướng một tướng gì; nó như một luồng gió mạnh thổi tan đi bao nhiêu đám mây mù lởn vởn che lấp tâm trí, làm cho mọi hành động bị lúng túng, vướng vấp, hạn hẹp. Và khi tâm trí đã ra khỏi mây mù vọng tưởng thì mọi sinh hoạt sẽ tự tại vô ngại không vướng vào danh tướng ngã nhân. Khi đã có lối nhìn của Bát-nhã thì các pháp môn tu hành đều được thành cứu kính Ba-la-mật.

Cái Không theo Bát-nhã là cái không tức nơi có mà không, chứ không phải diệt có thành không; cái Không theo Bát-nhã là cái Không tuyệt đối, chứ không phải cái Không đối đãi, không đối với có.

Các pháp tánh không mà chấp cho là thật có ấy là vọng tưởng lý luận. Nhưng nếu lại chấp tướng không mà phá hủy tất cả, thì lại rơi vào tà kiến. Vì vậy mà trong luận này đã cảnh tỉnh như sau:

"Người tà kiến nói các pháp không, lại chấp thủ tướng không của các pháp. Người tà kiến tuy miệng nói hết thảy không, mà ở nơi tham ái thì sanh tham ái, nơi sân giận thì sanh sân giận, nơi kiêu mạn thì sanh kiêu mạn, nơi ngu si thì sanh ngu si, chỉ tự dối mình như vậy. Còn người chơn thật biết không, thì tâm không lay động, nơi tất cả các chỗ kiết sử sanh không còn sanh lại được. Ví như hư không, khói lửa không làm nhơ, mưa lớn không làm ướt. Quán không được như vậy, các phiền não không còn dính tâm".

Và một đoạn khác nói: "Người quán Chơn không, trước hết thực hành bố thí, trì giới, thiền định, tâm được mềm dịu, các kiết sử mỏng, vậy sau mới đắc Chơn không. Còn người tà kiến thì không có các việc như vậy, họ chỉ muốn dùng ức tưởng phân biệt, tà kiến thủ không. Ví như người chưa hề biết muối, khi thấy người khác nêm muối vào thức ăn, người ấy hỏi lý do thì được người kia trả lời là muối sẽ làm cho đồ ăn ngon lành. Người ấy suy nghĩ, như vậy thì muối càng nhiều càng ngon, liền lấy toàn muối bỏ vào đầy miệng mà ăn, bị muối làm lở miệng, trở lại trách hỏi người kia, người kia nói sao anh ngu vậy, phải biết trù lượng nhiều ít hòa hợp mới ngon, chứ sao lại ăn cả toàn muối! Cũng như vậy, người vô trí nghe nói "Không giải thoát môn", liền bỏ hết không chịu thực hành các công việc công đức mà chỉ muốn chứng được Không. Thế là người tà kiến, dứt bỏ các thiện căn".

Tôi ước nguyện dịch bộ luận Đại Trí Độ này từ lâu nhưng nay mới đủ duyên thực hiện được bước đầu. Luận dẫn dụng nhiều Kinh luận, trong đó có các luận A-tỳ-đàm, được dẫn ra để chỉ chỗ sai lầm hoặc để giải thích tinh thần Bát-nhã. Nếu muốn hiểu cho hết thì phải có thì giờ đọc các luận A-tỳ-đàm mới được.

Luận này đã được ông Étienne Lamotte dịch ra tiếng Pháp nhan đề là Le Traité de la Grande vertu de Sagesse và Trường Đại học Louvain xuất bản tập đầu năm 1944, tập 3 năm 1970, tập 5 năm 1980. Các tập khác không rõ xuất bản năm nào vì hiện trước mắt tôi chưa có được.

Tôi nghĩ rằng bản chữ Hán, chữ Pháp và bản chữ Việt đối chiếu với nhau thì có thể giúp người đọc hiểu dễ dàng hơn.

Phật lịch 2541
Từ Đàm, tháng 9 năm 1997
Thích Thiện Siêu

 

MỤC LỤC

1-    Lời nói đầu

2-    Duyên khởi luận

3-    Giải thích Phẩm Tựa Đầu ( gồm 46 chương )

Chương 1 : Giải thích Như thị

Chương 2 :  Tổng thuyết Như thị

Chương 3 :  Giải thích Bà-già-bà

Chương 4 : Giải thích Trú Vương xá thành

Chương 5 : Giải thích Cọng Ma ha Tỳ-kheo Tăng

Chương 6 : Giải thích Nghĩa ba chúng

Chương 7 : Giải thích Bồ tát

Chương 8 : Giải thích Ma-ha Tát Đỏa

Chương 9 : Giải thích Bồ Tát công đức

Chương 10 :  Giải thích Mười dụ

Chương 11 : Giải thích Phật thế giới nguyện

Chương 12 : Giải thích Tam muội

Chương 13 : Giải thích phóng quang

Chương 14 : Giải thích Hiện phổ thân

Chương 15 : Giải thích mười phương chư Bồ Tát đến

Chương 16 : Giải thích Xá lợi phất nhân duyên

Chương 17 : Giải thích Đàn Ba-la mật

Chương 18 : Giải thích Tán thán Đàn Ba-la mật

Chương 19 : Giải thích Tướng của Đàn Ba-la mật

Chương 20 : Giài thích Đàn Ba-la mật pháp thí

Chương 21 : Giải thích Thi-la Ba-la mật

Chương 22 : Giải thích Nghĩa của Giới tướng

Chương 23 : Giải thích Tán thán Nghĩa Thi-la Ba-la mật

Chương 24 : Giải thích Sằn đề Ba-la Mật

Chương 25 : Giải thích Tỳ-lê-gia Ba-la mật

Chương 26 : Giải thích Thiền Ba-la mật

Chương 27 : Giải thích Bát-nhã Ba-la mật

Chương 28 : Giải thích Tướng Bát-nhã

Chương 29 : Giải thích Ba mươi bảy phẩm trợ đạo

Chương 30 : Giải thích Ba tam muội

Phụ lục : Nội dung luận Đại Trí Độ

                 Khái quát sự truyền dịch kinh Bát-nhã

Các sách khác thuộc Luận Tạng

Bát Nhã Tâm Kinh giảng giải
Bát Nhã Tâm Kinh giảng giải
Kinh Kim Cang giảng giải
Kinh Kim Cang giảng giải
Luận Thành Duy Thức
Luận Thành Duy Thức
Siêu lý cao học
Siêu lý cao học
Những điểm dị biệt - Kathavatthu
Những điểm dị biệt - Kathavatthu
Luận Đại Thừa Khởi Tín
Luận Đại Thừa Khởi Tín
Tạng Diệu Pháp - Bộ Pháp Tụ
Tạng Diệu Pháp - Bộ Pháp Tụ
Thắng Pháp Tập Yếu Luận tập 1
Thắng Pháp Tập Yếu Luận tập 1
Kinh Pháp Bảo Đàn giảng giải
Kinh Pháp Bảo Đàn giảng giải
Luận Thành Duy Thức
Luận Thành Duy Thức
Luận tạng - Chú giải bộ phân tích
Luận tạng - Chú giải bộ phân tích
Tạng Diệu Pháp - Bộ Song Đối
Tạng Diệu Pháp - Bộ Song Đối