Tìm Sách

Giới Luật >> Tập Yếu - Tập 1


Xem tại thư viện

Thông tin tra cứu

  • Tên sách : Tập Yếu - Tập 1
  • Tác giả : Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đinh Dũng)
  • Dịch giả : Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đinh Dũng)
  • Ngôn ngữ : Pali-Việt
  • Số trang : 605
  • Nhà xuất bản : Tôn Giáo
  • Năm xuất bản : 2014
  • Phân loại : Giới Luật
  • MCB : 12100000012562
  • OPAC :
  • Tóm tắt :

LỜI GIỚI THIỆU

(Được hiệu đỉnh lại từ bài viết năm 2009)

         Parivãrapãli là tập cuối của Vinayapitaka (Tạng Luật). Về ý nghĩa của từ parivãra, học-giả I. B. Homer phân tích như sau: “… pari là tiếp đầu ngữ có ý nghĩa: đi vòng quanh, bao bọc xung quanh, v.v… và vãra lấy theo từ gốc của SanskritVvr có nghĩa là bao phủ…”. Tuy nhiên, Vvr còn có nghĩa thứ hai là chọn lựa; dựa theo đó, chúng tôi tạm lấy tên là “Tập Yếu” có ý nghĩa nôm na là “Tập hợp lại những điều chính yếu.” Những điều chính yếu ấy đã được chọn lọc từ hai bộ Luật SuttavibhangaKhandhaka rồi được sắp xếp và trình bày qua những góc nhìn khác biệt.

         Như vậy, phải chăng Parivãrapãli – Tập Yếu này không đem lại tư liệu gì mới cho người đọc? Suy nghĩ như vậy xét ra cũng có phần đúng. Tuy nhiên, trong số những người đã đọc qua, thậm chí đã học một cách kỹ lưỡng hai bộ Luật trên, người nào có thể khẳng định rẳng bản thân cỏ thế hiểu được chính xác và ghi nhớ đầy đủ các điều đức Phật đã dạy, hoặc nghĩ đến việc hệ thống hóa lại kiến thức về Luật? Chúng ta hãy thử trả lời các câu hỏi sau: “Các điều học đã được quy định ở bao nhiêu địa điểm? Mỗi địa điểm như vậy được bao nhiêu điều? Có bao nhiêu điều học đã được quy định chung cho tỳ khưu 1 và tỳ khưu ni? Là các điều học nào? Có bao nhiêu điều học đã được quy định riêng cho tỳ khưu, cho tỳ khưu ni? Là các điều học nào? v.v… Parivãrapãli đã giải quyết các câu hỏi đó giúp cho người đọc khỏi phải mất thì giờ vận dụng ký ức hoặc phải mở sách ra xem lại.

         Parivãrapali – Tập Yếu gồm có 19 chương và được in thành hai tập: Parivãrapãli 1Tập Yếu 1 (TTPV 08, Tam Tạng Pãli – Việt tập 08) có 4 chương và Parivãrapãli 2 – Tập Yếu 2 (TTPV 09) gồm 15 chương còn lại. Bốn chương đầu thuộc tập một có nội dung tóm lược như sau:

  • Chương Đại Phân Tích trình bày những câu hỏi và trả lời liên quan đến bộ Phân Tích Giới Tỳ khưu gồm 16 phần chính tóm lược đầy đủ 227 điều học của tỳ khưu.
  • Chương thứ nhì Phân Tích Giới Tỳ khưu Ni là phần tóm lược về giới bổn của tỳ khưu ni gồm các điều học được quy định riêng cho ni giới. Cách trình bày cũng tương tợ như ở chương trên dành cho tỳ khưu.
  • Chương Tóm Lược về Nguồn Sanh Tội đề cập sáu nguồn sanh tội phát sanh lên do ba cửa thân khẩu ý: có thể sanh lên do thân và do ý, không do khẩu; có thể sanh lên do khẩu và do ý, không do thân, v.v… Có tội chỉ có một nguồn sanh tội, có tội có hai, có tội có ba, có tội có bốn, có tội có sáu, và cả thảy có mười ba nhóm có nguồn sanh tội giống nhau.
  • Chương thứ tư tuy có tên là Sự Trùng Lặp Liên Tục, nhưng lại được phân ra làm hai phần: (a) Sự Trùng Lặp Liên Tục và (b) Phân Tích Cách Dàn Xếp, tuy nhiên phần (b) chi là phần tiếp theo của phần (a) chưa được hoàn tất. Sở dĩ nhận ra được hai phần riêng biệt do việc các nhà kết tập vẫn lưu lại câu văn báo hiệu sự kết thúc của phần đầu: “antarapeyyãlam nitthitam” có nghĩa là “Sự Trùng Lặp Liên Tục được chấm dứt”. Cả hai phần này được trình bày dưới hình thức là các câu hỏi và đáp mở đầu bằng dạng tiêu đề (mãtikã).

         Về phần tác giả, nói đúng hơn là vị đã biên tập tài liệu này, chúng ta chỉ biết được tên vị ấy là Dĩpa qua lời tổng kết ở phần cuối của tập sách. Vị ấy được giới thiệu là “bậc trí tuệ đã học hỏi từ các vị thầy và thực hiện Parivãra nhằm làm sáng tỏ Chánh Pháp, giúp cho người học Phật giải quyết những hoài nghi đã sanh khởi. Có ý kiến cho rằng Dĩpa là một vị xuất gia người ở đảo Tích Lan.

         Về thời điểm, cũng không thể xác định chắc chắn. Dựa vào bài kệ liệt kê tên các V) trưởng lão kế thừa Tạng Luật được đề cập ở trang 6 nêu tên năm vị thuộc Jambudipa (Ấn Độ), kế tiếp là nhóm năm vị dẫn đầu là ngài Mahinda có trách nhiệm đi hoằng Pháp ở Tambapanni, và vị trưởng lão cuối cùng trong danh sách ấy có tên là Sĩva. Có tài liệu phỏng đoán rằng vị Sĩva đã sống vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch; như vậy, có thể suy luận rằng tập Parivãrapãli được thực hiện vào khoảng thời gian đó. Địa điểm đã thực hiện Parivãrapãli được mặc nhiên chấp nhận là ở trên hòn đảo Tambapanni ấy (tức là nước Sri Lanka ngày nay).

         Về nội dung, có các vấn đề đáng được lưu ý như sau:

         – Parivãrapãli tuy được xếp vào Tipitaka (Tam Tạng), nhưng phần lớn của Parivãrapãli không phải là những điều đã được nghe trực tiếp từ chính kim khẩu của đức Phật và được ghi lại nguyên văn như hai bộ Luật kia hoặc các bộ thuộc tạng Kinh; điều này được dễ dàng xác định qua văn bản. Parivãrapãli tuy không khẳng định là Phật ngôn nhưng các vấn đề thảo luận không đi ra ngoài những lời dạy của đức Phật.

         – Parivãrapãli hiện đang sử dụng gồm có 19 chương; tuy nhiên theo văn bản của Thái Lan và Pali Text Society thì ở cuối chương XIV có dòng chữ “Parivãrarn nitthitam” báo hiệu sự kết thúc của Pariyãrapãli. Dịch giả I. B. Homer dẫn chừng rằng các bản Chú Gỉai về Luật và Kinh Trường Bộ của ngài Buddhaghosa đề cập đến “solasaparivãra” nghĩa là Parivãrapãli gồm có 16 chương và lưu ý chúng ta về chương thứ tư gồm có 2 phần riêng biệt là Anantarapeyyãla (Sự trùng lặp liên tục) và Samathabheda (Phân tích cách dàn xếp) và chương thứ bảy gồm có Uposathãdipucchãvissajjanã (Các câu vấn đáp về lễ Uposãtha, v.v…) và Atthavasapakarana (Lời giải thích về điều lợi ích) đã được thu gọn lại; theo cách giải thích này chúng ta có được Parivãrapãli với mười sáu chương theo như các Chú Giải đã đề cập. Như vậy, phải chăng năm chương cuối của cả hai phần Chánh Tạng và Chú Giải đã được thêm vào sau thời kỳ của ngài Buddhaghosa? Điều này cần phải chờ đợi câu trả lời từ các công trình nghiên cứu nghiêm túc hoặc từ sự tìm ra các di tích từ những công cuộc khảo cổ để có được câu trả lời thích đáng.

         – Có điều cân nói thêm rằng: Parivãrapãli không phải là sách để đọc thông thường mà được xem là tài liệu học tập, là học cụ giúp cho người nghiên cứu Luật hiểu rõ và nắm vững các vấn đề thuộc về Luật. Sự trình bày vấn đề dưới nhiều gốc cạnh, theo từng chủ đề có thể giúp cho người đọc xác định lại kiến thức và góp phần vào việc củng cố sự ghi nhớ. Tuy nhiên, người đọc phổ thông cũng có thể học hỏi được những nét đa dạng trong nghệ thuật phân tích vấn đề.

         Về hình thức, văn bản li Roman được trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản li – Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka. Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành tâm tán dương công đức của Ven. Mettãvihãri đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điều này đã tiết kiệm cho chúng tôi nhiều thời gian và công sức trong việc nhận diện mặt chữ và đánh máy; tuy nhiên việc kiểm tra đối chiếu lại với văn bản chánh cũng đã chiếm khá nhiều thời gian.

         Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, như đã trình bày ở tập Luật trước, chúng tôi giữ nguyên từ Pãli của một số thuật ngữ không dịch sang tiếng Việt ví dụ như tên các điều học pãrãjika, sanghãdisesa, hoặc tên của các nghi thức như là lễ Uposatha, lễ Pavãranã, v.v… Ngoài ra cũng có một số từ không tìm ra được nghĩa việt như trường hợp tên các loại thảo mộc. Thêm vào đó, chúng tôi cũng đã sử dụng dạng chữ nghiêng cho một số câu hoặc đoạn văn nhằm gợi sự chú ý của người đọc về tầm quan trọng của ý nghĩa hoặc về tính chất thực dụng của chúng. Riêng về các câu kệ ngôn, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc.

         Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pãli thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.

         Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Ni Sư Kiều Đàm Di, hai vị Sư Cô ở Australia, gia đình Nguyên Văn Hiền & Trần Hùng, gia đình Phạm Trọng Độ & Ngô Thị Liên, và Phật tử Hựu Huyền, công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ cấp thời và quý báu của quý vị. Thành tâm câu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo.

         Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Tung Thiên đã sắp xếp thời gian để đọc qua bản thảo và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt.

         Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pãli – Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.

         Chúng tôi xin thành kính tri ân công đức của Ngài Hòa Thượng Ven. Devahandiye Pannãsekara Nãyaka Mahãthera, tu viện trưởng tu viện Sri Jayawardhana- ramaya Colombo 8 – Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ và các vật dụng cần thiết giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc thực hiện tập Luật này.

         Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

Kính bút,

ngày 15 tháng 04 năm 2009

Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đinh Dũng)

 

MỤC LỤC

Mục Lục

Lược Đồ Tam Tạng

Lời Giới Thiệu

Các Chữ Viết Tắt

ĐẠI PHÂN TÍCH

  1. PHẦN QUY ĐỊNH TẠI ĐẦU

1.1. Chương pãrãjika

Tóm Lược Phần Này

  1. 1. 2. Chương sanghãdisesa

Tóm Lược Phần Này

1.3. Chương ariyata

Tóm Lược Phần Này

1.4- Chương nissaggiya

4.1. Phẩm Kathina là thứ nhất

4.2. Phẩm Tơ Tằm là thứ nhì

4.3. Phẩm Bình Bát là thứ ba

Tóm Lược Phần Này

1.5. Chương pãcittiya

5.1. Phẩm Nói Dối là thứ nhất

5.2. Phẩm Thảo Mộc là thứ nhì

5.3. Phẩm Giáo Giới là thứ ba

5.4. Phẩm Vật Thực là thứ tư

5.5. Phẩm Đạo Sĩ Lõa Thể là thứ năm

5.6. Phẩm Rượu và Chất Say là thứ sáu

5.7. Phẩm Có Sinh Vật là thứ bảy

5.8. Phẩm Theo Pháp là thứ tám

5.9. Phẩm Đức Vua là thứ chín

Tóm Lược Phần Này

Tóm Lược Các Phẩm Này

1.6. Chương tidesanĩya

Tóm Lược Phần Này

1.7. Chương sekhiya

7.1. Phẩm Tròn Đều là thứ nhất

7.2. Phẩm Cười Vang là thứ nhì

7.3. Phẩm Chống Nạnh là thứ ba

7.4. Phẩm Đồ Ăn Khất Thực là thứ tư

7.5. Phẩm Vât Cơm là thứ năm

7.6. Phẩm Tiếng Sột Sột là thứ sáu

7.7. Phẩm Giày Dép là thứ bảy

Tóm Lược Phần Này

Tóm Lược Các Phẩm Này

Dứt phần Quy Định Tại Đâu thuộc bộ Đại Phân Tích.

  1. PHẦN BAO NHIÊU TỘI

2.1. Chương pãrãjika

2.2. Chương sanghãdisesa

2.3 Chương ràssaggiya

3.1 .Phẩm Kathina là thứ nhất

3.2. Phẩm Tơ Tằm là thứ nhì

3.3. Phẩm Bình Bát là thứ ba

2.4. Chương pãcittiya

4.1. Phẩm Nói Dối là thứ nhất

4.2.Phẩm Thảo Mộc là thứ nhì

4.3. Phẩm Giáo Giới là thứ ba

4.4. Phẩm Vật Thực là thứ tư

4.5. Phẩm Đạo Sĩ Lõa Thể là thứ năm

4.6. Phẩm Rượu và Chất Say là thứ sáu

4.7. Phẩm Có Sinh Vật là thứ bảy

4.8. Phẩm Theo Pháp là thứ tám

4.9. Phẩm Đức Vua là thứ chín

2.5. Chương pãtidesanĩya

2.6. Chương sekhiya

6.1. Phẩm Tròn Đều là thứ nhất

6.2. Phẩm Cười Vang là thứ nhì

6.3. Phẩm Chống Nạnh là thứ ba

6.4. Phẩm Đồ Ăn Khất Thực là thứ tư

6.5. Phẩm Vât Cơm là thứ năm

6.6. Phẩm Tiếng Sột Sột là thứ sáu

6.7. Phẩm Giày Dép là thứ bảy

  1. PHẦN SỰ HƯ HỎNG
  2. PHẦN ĐƯỢC TỔNG HỢP
  3. PHẦN NGUỒN SANH TỘI
  4. PHẦN SỰ TRANH TỤNG
  5. PHẦN DÀN XẾP
  6. PHẦN SỰ QUY TỤ

Tóm Lược Phần Này

  1. PHẦN QUY ĐỊNH TẠI ĐÂU

9.1. Chương pãrãjika

9.2-7. Chương sanghãdisesa, v.v…

  1. PHẦN BAO NHIÊU TỘI

Chương pãrãjika

10.2-7. Chương sanghãdisesa, v.v…

  1. PHẦN SỰ HƯ HỎNG
  2. PHẦN ĐƯỢC TỔNG HỢP
  3. PHẦN NGUỒN SANH TỘI
  4. PHẦN SỰ TRANH TỤNG
  5. PHẦN DÀN XẾP
  6. PHẦN SỰ QUY TỤ

Và Bộ Đại Phân Tích được chấm dứt.

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU NI

  1. PHẦN QUY ĐỊNH TẠI ĐÂU

1.1. Chương pãrãjika

Tóm Lược Phần Này

1.2. Chương sanghãdisesa

Tóm Lược Phần Này

1.3. Chương nissaggiya

Tóm Lược Phần Này

1.4. Chương pãcittiya

4.1. Phẩm Tỏi là thứ nhất

4.2. Phẩm Bóng Tối là thứ nhì

4.3. Phấm Lõa Thể là thứ ba

4.4. Phẩm Nằm Chung là thứ tư

4.5. Phẩm Nhà Triển Lãm Tranh là thứ năm

4.6. Phẩm Tu Viện là thứ sáu

4.7. Phẩm Sản Phụ là thứ bảy

4.8. Phẩm Thiếu Nữ là thứ tám

4.9. Phẩm Dù Dép là thứ chín

Tóm Lược Phần Này

TÓM LƯỢC CÁC PHẨM ẤY

1.5. Chương tidesanĩya

Tóm Lược Phần Này

  1. PHẦN BAO NHIÊU TỘI

Chương pãrãjika

Chương sanghãdisesa

Chương nissaggiya

Chương pãcittiya

4.1. Phẩm Tỏi là thứ nhất

4.2. Phẩm Bóng Tối là thứ nhì

4.3. Phẩm Lõa Thể là thứ ba

4.4. Phẩm Nằm Chung là thứ tư

4.5. Phẩm Nhà Triển Lãm Tranh là thứ năm

4.6. Phẩm Tu Viện là thứ sáu

4.7. Phẩm Sản Phụ là thứ bảy

4.8. Phẩm Thiếu Nữ là thứ tám

4.9. Phẩm Dù Dép là thứ chín

2.5. Chương pãtidesaniya

  1. PHẦN SỰ HƯ HỎNG
  2. PHẦN SỰ TỔNG HỢP
  3. PHẦN NGUỒN SANH TỘI
  4. PHẦN SỰ TRANH TỤNG
  5. PHẦN SỰ DÀN XẾP
  6. PHẦN SỰ QUY TỤ
  7. PHẦN QUY ĐỊNH TẠI ĐÂU

9.1. Chương pãrãjika

9.2-7. Chương sanghãdisesa

  1. PHẦN BAO NHIÊU TỘI

10.1. Chương pãrãjika

10.2. Chương sanghãdisesa

  1. PHẦN SỰ HƯ HỎNG
  2. PHẦN SỰ TỔNG HỢP
  3. PHẦN NGUỒN SANH TỘI
  4. PHẦN SỰ TRANH TỤNG
  5. PHẦN SỰ DÀN XẾP
  6. PHẦN SỰ QUY TỤ

TÓM LƯỢC CÁC PHẦN NÀY

Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni được chấm dứt.

TÓM TẮT CÁC ĐẦU ĐỀ CỦA NGUỒN SANH TỘI

Tóm lược về nguồn sanh tội

Mười ba nguồn sanh tội

  1. Nguồn Sanh Tội của điều Pãrãjika Thứ Nhất
  2. Nguồn Sanh Tội của điều Pãrãjika Thứ Nhì
  3. Nguồn Sanh Tội của điều Làm Mai Mối
  4. Nguồn Sanh Tội của điều Nói Nhắc Nhở
  5. Nguồn Sanh Tội của điều Kathina
  6. Nguồn Sanh Tội của điều Lông Cừu
  7. Nguồn Sanh Tội của điều Pháp Theo Từng Câu
  8. Nguồn Sanh Tội của điều Đường Xa
  9. Nguồn Sanh Tội của điều Đám Người Đạo Tặc
  10. Nguồn Sanh Tội của điều Thuyết Giảng Pháp
  11. Nguồn Sanh Tội của điều Tuyên Bố sự Thực Chứng
  12. Nguồn Sanh Tội của điều Tiếp Độ Nữ Đạo Tặc
  13. Nguồn Sanh Tội của điều Chưa Được Cho Phép

SỰ TRÙNG LẶP LIÊN TỤC

PHẦN CÂU HỎI BAO NHIÊU

  1. Phần Sáu Nguồn Sanh Tội
  2. Phần Bao Nhiêu Tội
  3. Bài Kệ Về Nguồn Sanh Tội
  4. Phần Do Duyên Hư Hỏng
  5. Phần Do Duyên Tranh Tụng

Tóm Lược Phần Này

PHÂN TÍCH CÁCH DÀN XẾP

  1. Phần Phương Thức Trình Bày
  2. Phần Có Liên Quan
  3. Phần Có Cùng Quan Hệ
  4. Phần Các Cách Dàn Xếp

Có Liên Quan Đối Với Cách Dàn Xếp

  1. Phần Các Cách Dàn xếp Có Cùng Quan Hệ Đối Với Cách Dàn Xếp
  2. Phần Các Cách Dàn xếp Và Hành Xử Luật Với Sự Hiện Diện
  3. Phần Cách Hành Xử
  4. Phần Tốt Đẹp
  5. Phần Nơi Nào
  6. Phần Cách Dàn xếp
  7. Phần Được Gắn Liền
  8. Phần Được Làm Lắng Dịu
  9. Phần Được Làm Lắng Dịu & Không Được Làm Lắng Dịu
  10. Phần Cách Dàn Xếp Và Sự Tranh Tụng
  11. Phần Làm Sanh Khởi
  12. Phần Liên Hệ Với

Tóm Lược Phần Này

Dứt Phân Tích cách Dàn xếp.

Phần Phụ Chú

Các Bản Dịch cùa Tỳ Khưu Indacanda

Địa Chỉ Liên Hệ

Phương Danh Thí Chủ

Các sách khác thuộc Giới Luật

Luật Xuất Gia
Luật Xuất Gia
Trùng trị Tỳ Ni tập II
Trùng trị Tỳ Ni tập II
Luật Bí Sô tập II
Luật Bí Sô tập II
Phá Tăng sự
Phá Tăng sự
Tứ phần luật tỳ kheo giới tướng biểu kỳ
Tứ phần luật tỳ kheo giới tướng biểu kỳ
Luật Ma-ha tăng kỳ tập 1
Luật Ma-ha tăng kỳ tập 1
Luật Tứ Phần Q1
Luật Tứ Phần Q1
Chú giải Luật Thiện Kiến
Chú giải Luật Thiện Kiến
Pháp thức và ý nghĩa Hành trì giới luật
Pháp thức và ý nghĩa Hành trì giới luật
Sa Di luật giải
Sa Di luật giải
Bách Trượng Thanh Quy
Bách Trượng Thanh Quy
Thức-xoa-ma-na Luật Nghi
Thức-xoa-ma-na Luật Nghi