Tìm Sách

Giảng Luận >> Đơn giản và thuần khiết


Xem tại thư viện

Thông tin tra cứu

  • Tên sách : Đơn giản và thuần khiết
  • Tác giả : Upasika Kee Nanayon (K. Khao-suan-luang)
  • Dịch giả : Diệu Liên Lý Thu Linh - Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam - Diệu Ngộ Mỹ Thanh
  • Ngôn ngữ : Việt
  • Số trang : 340
  • Nhà xuất bản : NXB Phương Đông
  • Năm xuất bản : 2010
  • Phân loại : Giảng Luận
  • MCB : 12010000009826
  • OPAC :
  • Tóm tắt :

Đơn giản và thuần khiết

Tập hợp các bài giảng của nữ thiền sư nổi tiếng Thái Lan thế kỷ 20

Tác Giả: Upasika Kee Nanayon (K. Khao-suan-luang)

Chuyển ngữ tiếng Anh và viết lời giới thiệu: Tỳ kheo Thanissaro

Chuyển ngữ sang tiếng Việt:
Diệu Liên Lý Thu Linh

Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Diệu Ngộ Mỹ Thanh

NXB Phương Đông

Lời người dịch

Chúng con kính xin đảnh lễ Đức Thế Tôn người luôn là ánh sáng cho chúng sanh soi rọi. Đảnh lễ nữ thiền sư Kee Nanayon, người đã để lại những bài Pháprất giản dị mà cao siêu, hướng dẫn chúng con đi đúng theo Chánh Pháp của Đức Phật.

Chúng con xin hoan hỷ giới thiệu môt tác phẩm của nữ thiền sư người Thái Lan: Kee Nanayon. Tác phẩm này là tổng hợp của nhiều bài Ph1ap được bà giảng từ năm 1954 đến năm 1977. Sách nguyên gốc không chia thành chương, chỉ có sáu tựa lớn, dưới một số tựa lớn có những tiểu tựa. (trong dịch phẩm này, chúng tôi đánh số chương để độc giả dể theo dõi). Mỗi tiểu tựa có thể là một bài giảng ở một thời điểm khác nhau, vì thế khi tập hợp lại, diều này tạo cho chúng ta có cảm tưởng là nhiều ý tưởng được lập đi lập lại và có thể khiến một số độc giả thiếu kiên nhẫn khi theo dõi. Riêng đối cới chúng tôi – những người sơ cơ, điều đó lại là một ân huệ. Ngoài ra, văn phong của Upasika Kee Nanayon rất giản dị, ch6an tình. Đôi khi chúng tôi có cảm giác như đang nghe những lời nhắc nhở, dạy dỗ của một người thày, người mẹ, tuy hơi nghiêm khắc nhưng luôn tràn đầy tâm từ bi, muốn cho người nghe, người đọc phải tinh tấn thêm lên, gấp rút thêm lên trên con đường tu học của mình. Những lời dạy khiến cho bản thân người dịch chúng tôi cũng thầm xấu hổ cho sự dễ duôi cũa bàn thân mình.

Mổi lần hoàn thành một dịch phẩm, chúng tôi đểu cảm thấy hàm ân rát nhiề. Trước tiên là do duye6nla2nh chúng tôi có được những phương tiện như sức khỏe, thời gian, sự kiên trì để hoàn thành dịch phẩm. Xin chân thành sám hối với giác linh của Upasia Kee Nanayon, vì sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi về Pháp hành cũng như Pháp học nên chắc chắn sẽ khiến dịch phẩm này còn rất nhiều thiếu sót và sai lầm. Rất mong nhận được sữ chỉ giáo hướng dẩn của các bậc tôn sư, quý học giả cùng quý đạo hữu gần xa.

Lần này ngoài Mỹ Thanh, người vẫn thường xuyên góp sức trong việc dịch thuật với chúng tôi, còn có thêm đạo hữu Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam, một đạo hữu mà chúng tôi chưa từng được gặp mặt, nhưng qua duyên lành được quen biết, đã hoan hỷ góp sức với chúng tôi. Xin chân thành cảm ơn Mỹ Thanh và đạo hữu Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Cầu mong phước báu này hãy là một trợ duyên cho sự tu tập của chúng tôi. Cầu mong tất cả chúng sanh được an vui hạnh phúc. Cầu mong Chánh pháp được trường tồn

Diệu Liên Lý Thu Linh

Tháng 5, 2010

 

Lời giới thiệu (của bản Tiếng Anh)

Upasika Kee Nanyayon, còn được biết đếnqua bút danh K. Khao suan luang, là vị nữ Pháp sư nổi tiếng nhất ở Th1ai Lan trong thế kỷ XX. Sinh năm 1901 trong một gia đình thương nhân Trung Hoa ở Rajburi ( một thành phố phía Tây Bangkok), bà là con cả trong gia đình năm chị em – hay tám chị em, nếu tính luôn cả những đứa con của mẹ kế. Mẹ bà là một Phật tử thuần thành, đã dạy cho bà những kiến thức cơ bản về các nghi lễ Phật giáo, như tụng niệm hằng đêm và giữ gìn giới luật từ khi bà còn rất nhỏ. Lúc cuối đời, bà đã kể lại: từ lúc sáu tuổi, bà đã cảm thấy đầy sợ hải và ghê sợ như thế nào đối với những khốn khổ mà mẹ bà đã phải trải qua trong lúc mang thai và sinh ra một trong những người em của bà, đến nỗi khi nhìn thấy đứa trẻ mới sinh lần đầu tiên –“đang nằm yên ngủ, một sinh vật nhỏ tí, đỏ hỏn, với tóc đen thật là đen” – bà đã chạy trốn khỏi nhà suốt ba ngày. Kinh nghiệm này, cộng với những bức xúc mà bà hẳn đã cảm nhận khi cha mẹ bà chia tay nhau, có lẽ là lý do tiềm ẩn kiến bà , tuy còn rất trẻ, đã quyết định sẽ không bao giờ chịu cúi đầu tuân theo những gì mà bà coi là sự nô lệ trong hôn nhân.

Ở tuổi vị thành niên, bà dốc hết thời gain rảnh rỗi vào việc tìm hiểu Phật Pháp và hành thiền, chỉ làm vửa đủ để kiếm tiền nuôi dưỡng cha già bằng cách trông coi một cửa hàng nhỏ. Sự hành thiền của bà tiến bộ tốt đến nỗi bà có thể dạy lại cha mình với kết quả khả quan trong năm cuối đời ông. Sau khi cha mất, bà tiếp tục làm việc với suy nghĩ rằng bà sẽ để dành đủ tiền để giúp bà có thể sống quảng đời còn lại ở một nơi thanh vắng và dốc hết tâm sức vào việc tu tập. Cô chú của bà, những người cũng rất ham thích việc hành thiền, có một ngôi nhà nhỏ gần một ngọn đồi có rừng – Khao Suan Luang- ở ngoại thành của Rajburi, nơi bà thường đến tu tập (núi Công viên Hoàng gia, nơi đã tạo hứng khởi để bà chọn làm bút danh). Vào năm 1945, khi cuộc sống xáo trộn do thế chiến thứ II gây ra đã bắt đầu trở lại bình thường, bà giao cửa hàng lại cho người em gái để theo cô chú dọn về vùng núi, tại đây cả ba người bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn hướng về thiền tập, như những Ưu bà tắc (upasaka) và Ưu bà di (upasaki) – những đệ tử nam, nữ tại gia của Đức Phật. Từ một nhóm tu nhỏ, do họ tự lập với nhau trong một tu viện bỏ hoang, dần dần nhóm tu đã phát triển để trở thành một trung tâm tu tập của phụ nữ, và vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay.

Hằng ngày, họ tụ họp lại để đọc kinh, hành thiền theo nhóm và trao đổi về các kinh nghiệm tu tập. Trong những năm khi sức khỏe của Upasaki Kee vẫn còn tốt, bà tổ chức những buổi họp mặt đặc biệt, qua đó bà sẽ nói một bài pháp về những vấn đề quan trọng mà họ đã nêu lên trong báo cáo. Phần lớn các bài pháp được ghi lại trong sách này có xuất xứ từ những buổi họp mặt như thế.

Tỳ Kheo Thanissaro

Metta Forest Monastery

Valley Center, California

 

Lời dẫn nhập

Vào năm 1965, không lâu sau khi chú của bà mất, Upasika Kee viết một bài thơ dài về 20 năm đầu tiên ở Khao-suan-luang. Dưới đây là một phần của bài thơ được viết lại dưới dạng văn xuôi.

Vào ngày 26 tháng 6 năm 1945, ba người chúng tôi – cô, chú và tôi – đầu tiên đến ở trong một giảng đường cũ kỹ trên đồi Khao-suan-luang. Chú Plien Raksae lo việc sửa chữa nơi này. Chú từng là một nông dân sống ở phía bên kia đồi, nhưng chú đã bỏ lại mọi lo toan chuyện gia đình để lo tu hành.

Nơi này là một tu viện cũ do một vài vị tăng lập nên, nhưng sau đó đã bỏ hoang nhiều năm nay. Kế bên giảng đường có một hồ nước hình bán nguyệt bằng xi măng dung để hứng nước mưa từ mái nhà chảy xuống – đủ để dùng cả năm. Những thiền thất cũ ở xa xa chạy dọc theo sườn đồi dẫn lên giảng đường. Các cư sĩ trong vùng đã đào một cái hồ dưới chân đồi để chứa nước mưa, nhưng vào mùa khô, hồ không có nước. Một lối mòn dành cho xe bò bỏ hoang ở mép hồ đánh vòng lên khu đồi, khoanh vùng một diện tích khoảng 300.000m2, nơi chúng tôi quyết định sẽ làm nơi tu tập.

Khi chúng tôi mới đến, nơi nàyphủ đầy bụi rậm và cỏ dại, vì thế chúng tôi phải dọn sạch những con đường xuyên qua rừng, chạy lên đồi đến một cái hang dưới mỏm núi – một cái hang mà chúng tôi gọi là Uttama Santi – Hang Hòa bình Tột đỉnh. Dọn dẹp khu rừng ngày này qua ngày khác, thật là vui, và không lâu sau đó có thêm một phụ nữ nữa đến nhập nhóm với chúng tôi. Trong những ngày đó không có khách vãng lai, vì thế nơi này rất yên tĩnh.

Khi mới đến tôi rất sợ ma và sợ người, nhưng tôi rất quyết tâm, và niềm tin của tôi vào nghiệp (kamma) dần dần xua tan những lo âu và sợ hãi của tôi. Trước đó, tôi chưa từng sống trong rừng. Tôi không có mục đích gì để sống ở đó, hơn nữa tôi nghĩ sống ở phố thị vẫn tốt hơn. Tôi có thể mở một cửa hàng và có thể kiếm đủ tiền để sống suốt đời. Tuy nhiên, khi đến khu rừng này, nơi cuộc sống rất giản đơn, tôi dần cảm thấy nhẹ nhàng và tự do. Được nhìn thấy thiên nhiên chung quanh khiến tôi muốn khám phá nội tâm mình.

Không xung đột, không suy tư,

Tâm tĩnh lặng,

Sẽ nhìn thấy nhân quả

Tan đi vào Không.

Không bám víu, buôn xả:

Biết rằng đó là con đường

Để giải tỏa mọi ưu tư.

Về thực phẩm, chúng tôi sống nhờ vào những khóm măng tươi ngon mọc trong bụi tre trên đỉnh đồi. Các loại trái đắng và dâu sum suê trong mùa mưa là dược thực của chúng tôi. Về chén đĩa, chúng tôi sử dụng bất cứ thứ gì có thể tìm được trong rừng. Thí dụ: vỏ dừa sẽ được làm thành những chiếc tô tuyệt vời, vì bạn không phải lo việc chúng bị vỡ. Chúng tôi vá chằn vá chịt mấy bộ quần áo mang theo, và ngủ trên những tấm đệm và gối gỗ cũ tìm thấy trong giảng đường. Tôi cũng có một gối gỗ khác để nghỉ ngơi trong hang riêng của mình. Thiền sinh rất thích các gối gỗ này, vì nếu dùng các gối mềm, ta phải lo cất giữ chúng thật kỹ càng.

Đủ loài thú vật sống quanh đồi: mèo,chồn hoang, thỏ, cắc kè, thằn lằn, rắn…Bọn khỉ thỉnh thoảng cũng đến phá phách chúng tôi, bẻ trái trong vườn. Tiếng kêu của những con chim cú và quạ trùm phủ không gian. Từng đàn dơi sống trong hang, ban đêm bay ra và chỉ trở về trước khi hừng đông. Kiến và sâu bọ không bay được nên bò đầy mặt đất, với vẻ chăm chỉ, cần mẫn – nhưng đi về đâu? Và chúng mang chở thứ gì mà phối hợp với nhau quá nhịp nhàng?

Dọn đến nơi đây, chúng tôi đã cắt bỏ tất cả những ký ức về quá khứ và chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để tiến bộ hơn trong việc giải thoát khỏi khổ đau. Khách vãng lai đến rồi đi. Nhưng cũng có nhiều người đến ở với chúng tôi, với ý định là muốn học các phương cách để rèn luyện tâm, và làm giảm bớt những nỗi khổ đau của họ. Chưa bao giờ được rèn luyện để làm vị giáo thọ, nhưng bây giờ tôi lại bắt gặp mình thảo luận về việc tu tập và các phương tiện thiện xảo để quán sát ngũ uẩn. Tất cả những người đến đây tu tập đều đã có chút ít kinh nghiệm nơi chốn thiền môn, vì thế họ biết khá nhiều Pháp và chấp nhận tu tập, thực hành với một thái độ sáng suốt cởi mở. Chúng tôi thường tụ họp lại để thảo luận về nhiều phương cách có thể được sử dụng trong việc huấn luyện tâm để khám phá ra than và tâm (danh sắc) một cách hữu hiệu.

Giờ đâu, sau 20 năm, cánh rừng này không còn hoang dã nữa và nơi chốn này đã được tu sửa về nhiều mặt để thích hợp với việc tu tập hòng thoát khỏi vòng khổ đau và phiền não. Nếu chúng ta tiếp tục tiến bước trên đạo lộ, theo gương của các vị thánh đệ tử - với tâm chân chánh và kham nhẫn trong nỗ lực của mình để khám phá ra ngũ uẩn một cách trí tuệ - chúng ta có thể chắc chắn rằng mình sẽ tìm được kết quả mong mong muốn.

Hãy trân quý mùi hương rừng

Cho đến khi đất trời tịch diệt,

Khu rừng của núi Công viên Hoàng gia

Vẫn mãi là khu vườn của tĩnh lặng,

Nơi Pháp mầu vang dội:

Niết-bàn – nơi không còn giới hạn – là thiên nhiên trống vắng mọi ưu phiền

Upasika Kee Nanayon

Các sách khác thuộc Giảng Luận

Luận Du Già Sư Địa (Tập 1)
Luận Du Già Sư Địa (Tập 1)
Bến bờ tuệ giác
Bến bờ tuệ giác
Hương Vị Pháp Bảo
Hương Vị Pháp Bảo
Từ chánh niệm đến giác ngộ - Cẩm nang của người tu thiền
Từ chánh niệm đến giác ngộ - Cẩm nang của người tu thiền
Nhân duyên học
Nhân duyên học
Lời Phật dạy trong kinh tạng Nikaya-tập1
Lời Phật dạy trong kinh tạng Nikaya-tập1
Nhị khóa hiệp giải
Nhị khóa hiệp giải
Ước Hẹn Với Sự Sống
Ước Hẹn Với Sự Sống
Tương Lai Văn Hóa Việt Nam
Tương Lai Văn Hóa Việt Nam
Tương Lai Thiền Học Việt Nam
Tương Lai Thiền Học Việt Nam
Tuổi Trẻ Tình Yêu và Lý Tưởng
Tuổi Trẻ Tình Yêu và Lý Tưởng
Bưởi
Bưởi