KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
TỰA
Trước khi giảng bộ kinh này, tôi cũng nói đơn sơqua một vài đặc điểm, để
cho đại chúng có cái ý thức trước, rồi học bộ Kinh.
Trước hết là sơ lược về bộ Kinh này. Phần một là nói về phiên dịch. Kinh
này là từ chữ Phạn dịch ra chữ Hán. ỞTrung Hoa có ba nhà dịch:
1.- Chi Lâu Ca Sấm, Ngài dịch tên kinh là “Duy Ma Cật Kinh”, chia làm ba
quyển.
2.- Ngài Cưu La Ma Thập, dịch tên là “Duy Ma Cật SởThuyết Kinh”, có
hai quyển. Cũng có tên là “Bất KhảTưNghì Giải Thoát Kinh”.
3.- Ngài Huyền Trang, dịch :Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh”.
Đó là ba Ngài dịch mà còn có những bảng kinh lưu lại đến giờ.
Kế đây là mục thứ hai, nói lý do Kinh này ra đời. Lý do thì có nhiều nhưng
đây tôi lược kể hai lý do:
Lý do thứ nhất, vì lòng từ bi bình đẳng của Phật, cho nên bộ kinh này ra đời.
Bởi vì trước những thời pháp, những buổi giáo hóa ban đầu, thì tất cảnhững người
tu trong đạo Phật, mà Phật gọi là hàng được giải thoát sinh tử, A La Hán đó. Đều
là dành riêng cho người xuất gia. Chỉngười xuất gia tu mới có thểchứng quảA La
Hán. Còn hàng cưsĩtối đa là chứng quảA Na Hàm là cùng. Tức là quảthứba
trong bốn quả. Chứchưa có khi nào chứng được A La Hán.
Như vậy ai muốn giải thoát sinh tử đều phải xuất gia tu, mới giải thoát sanh
tử được. Còn nếu còn tại gia tu chỉlà cái nhân tốt để sau này tiếp tục tu thêm. Chớ
hiện đời không thểgiải thoát. Bởi vậy cho nên từbao nhiêu thế kỹ, người phát tâm
tu, ngay trong lúc đức Phật tại thế cho đến sau này, muốn giải thoát, đều ồ ạt tìm
xuất gia. Nhưvậy thì đa sốngười xuất gia dù đông mấy đi nữa cũng là thiểu phần
trong quần chúng. Mà nếu chỉcó một thiểu phần tu hành, có thể được giải thoát
sinh tử. Còn đa sốthì không được. Tức nhiên số người tu Phật càng ngày càng bị
hạn chế.
Do đó cho nên vì lòng từ bi của Phật mà Ngài đem câu chuyện của Ông
Duy Ma Cật bệnh ra, đểmời các thầy TỳKheo, hay là các vịA La Hán, cho đến
BồTát đến thăm Ngài. Nhưng mà tất cả những vị Tỳ Kheo, A La Hán và BồTát
đó đều nểkính Ông Duy Ma Cật. Thấy các Ngài không đủ khả năng đối đáp với
Ông Duy Ma Cật. Cũng không đủkhảnăng đểmà chinh phục được ông. Ngược
lại đều bị ông chinh phục.
Như vậy chứng tỏrằng không phải chỉ trong giới xuất gia làm TỳKheo,
chứng A La Hán. Và xuất gia như trong hình ảnh Đại thừa có những Ngài như
Văn Thù Sư Lợi. Hoặc là Ngài Địa Tạng Bồ tát đều là hình ảnh người xuất gia.
Thì dù Bồ tát xuất gia đó nhưng cũng chưa đủ khả năng mà chinh phục nổi. Hay là
vượt hơn được một ông cư sĩ, là Ông Duy Ma Cật.
Đó là cái điều đểnâng cao tinh thần của vịcưsĩtại gia. Nếu cưsĩtại gia mà
đạt đạo đúng rồi, cũng có cái khảnăng siêu việt mà hàng xuất không thểvượt qua
nổi. Đó là đểnuôi cho chánh pháp hay giáo lý Phật dạy đi khắp trong mọi tần lớp.
Nó không dành riêng ưu đãi cho một chế độxuất gia thôi. Đó là nói vì lòng đại bi
của Phật mà kinh này ra đời.
Phần thứ hai là có một sốnhà khảo cứu về lịch sử, họ thấy rằng Kinh Duy
Ma Cật này có tánh cách như là một cuộc cách mạng của cưsĩ. Bởi vì từtrước đến
giờchỉcó những người xuất gia đạt đạo chứng quả, mà chưa ai nói đến người cư
sĩ đạt đạo cao, bằng và hơn người xuất gia. Nhưng mà tới thời gian Kinh Duy Ma
Cật ra đời, thì lại thấy một ông cưsĩsiêu xuất hơn cảngười xuất gia nữa.
Nhưvậy đó là một cuộc cách mạng để nâng giới cư sĩ lên. Chớ không có
theo cái nềnếp cũ, chỉ nói xuất gia mới là giải thoát. Xuất gia mới được tựtại.
Xuất gia mới đạt đạo viên mãn v.v... đó là tính cách nghiên cứu lịch sữ. Cho nên những vị đó họnói rằng: Kinh Duy Ma Cật ra đời là một cuộc cách mạng của hàng
cưsĩ.
Đó là hai lý do. Lý do trước là nhìn theo tâm bình đẳng của Phật. Lý
do sau là nhìn theo cuộc thay đổi của giai cấp tu hành. Đó là hai điểm tôi nêu
lên về lý do.