BA KINH TỊNH ĐỘ
Thích Thiện Thông dịch
Nhà xuất bản Phương Đông
LỜI TỰA
Tiên đức thường cho rằng: “ Giáo môn Tịnh Độ cực kỳ rộng lớn, sâu xa, nhiếp hết mọi căn cơ, trình độ từ bậc thượng thánh đến kẻ hạ phàm, khế hợp với mọi giai tầng trí thức, bình dân. Cho nên, nếu kể những kinh, những luận của môn Tịnh Độ, thì có vô số nhiều như Hằng sa”.
Trên đây là lời của Thiền sư Tông Bổn đã phát biểu trong sách QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ.
Riêng luận về đường lối Tịnh Độ, trì danh, quán tưởng Phật A Di Đà, cầu sanh thế giới An Lạc, thì Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ ràng trong ba kinh chính. Đó là: Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật kinh, Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, Phật Thuyết A Di Đà kinh.
Trong ba kinh này, có kinh trình bày rộng rãi tổng quát, có kinh trình bày sâu sắc tinh vi, có kinh thuyết minh một cách tóm lược, nhưng có ba kinh dạy về đường lối tu hành của Bồ Tát đạo, cho nên BA KINH TỊNH ĐỘ đều nhiếp về bí tạng của Bồ Tát thừa.
Như kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật chẳng hạn, Đức Thế Tôn đã thuật lại đầy đủ chi tiết về nhân địa phát tâm của Phật A Di Đà, khi còn là Tỳ kheo Pháp Tạng, đã đối trước Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai mà phát bốn mươi tám đại nguyện thù thắng cao cả, để trang nghiêm Phật độ, nhiếp hòa chúng sanh.
Đức Phật cho biết về thời kiếp lâu xa mà ngài Pháp Tạng đã tu lục độ Vạn Hạnh đức Phật thuật rõ chánh đạo. Y báo của Phật A Di Đà và Thánh chúng Cõi An Lạc, từ thân tướng, thọ mạng cho đến vạn vật trong toàn quốc độ. Nơi quyển Hạ, đức Phật nói về công đức, trí tuệ, thần biến của Thánh chúng cõi ấy. Phần sau quyển Hạ, ngài nói đến chánh báo, y báo ở cõi Ta Bà vào thời Ngũ trược với năm mối đại ác, năm nỗi đau đớn, năm sự thiêu đốt. Sau cùng, đức Phật huyền ký kinh này đối với thời đại Mạt pháp.
Về kinh Thập Lục Quán, duyên khởi là do thái tử A Xà Thế nghịch hại cha mẹ, hoàng hậu Vi Đề Hy, mẹ của thái tử, trong một hoàn cảnh vô cùng đau khổ, tuyệt vọng, bà đã cầu cứu đến Phật và xin ngài chỉ cho đường lối tu hành, để khỏi tái sanh cõi này, vì “phải sống chung đụng với người xấu ác”.
Nhân sự thưa thỉnh của Vi Đề Hy, Đức Thế Tôn dạy về mười sáu pháp quán để được sanh cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Nội dung mười sáu pháp quán vô cùng tinh vi, sâu thẳm mà cổ nhân cho rằng “ đều nhiếp vào trung đạo diệu quán phi hữu, phi vô”.
Ngoài sự chỉ dạy tinh tường các môn diệu quán, Phật cũng thuyết minh chủng hạnh vãng sanh và sự Trì danh phát nguyện. Bởi những pháp quán tinh diệu này mà học giới Trung Hoa và Việt Nam đều xem Quán kinh có một tầm mức vô cùng quan trọng trong số ba kinh. Đặc biệt hơn nữa, đức Phật cho biết, những ai thành tựu mười niệm trong lúc lâm chung, cũng được dự vào hải hội Liên trì. Cho nên kinh Thập Lục Quán có một giá trị khích lệ vô song, đối với những người tự xét biết mình tạo nhiều tội nặng, khó khỏi ác đạo.
Đến kinh Tiểu Bổn A Di Đà, đức Phật lược tả thế giới Cực Lạc với phần y chánh cõi ấy. Kinh này Phật dạy phương tiện Trì danh hiệu Phật A Di Đà và phát nguyện hồi hướng.
Tuy nói Tiểu Bổn, mà thật sự ra, tầm mức rộng lớn thì không khác gì các kinh lớn kia. Bởi vì Đức Như Lai nói kinh Tiểu Bổn này, không phải chỉ để thính chúng trong hội Kỳ Viên hoặc các thiên chúng ở các tầng trời nơi cõi Ta Bà này nghe, mà ngài dùng tiếng nói rỗng suốt (lê-âm) để nói kinh này. Do đó, Hằng sa chư Phật mười phương, đều bảo Bồ Tát Thanh Văn nước mình (đang nghe lời nói của Phật Thích Ca) hãy nên tin nhận những lời nói của Phật Thích Ca Mâu Ni, khen ngợi Phật A Di Đà.
Xét qua nội dung ba kinh nói trên, chúng ta không thấy có sự mâu thuẩn nào, mà là bổ sung, khai triển cho nhau, để người tu tùy sở thích mà chọn một trong các đường lối tu tập. Hoặc tu Lục độ, hoặc tư duy quán tưởng, hoặc chuyên trì danh hiệu hoặc mỗi ngày thập niệm…
Bởi tính cách quý báo này mà BA KINH TỊNH ĐỘ rất thiết yếu, rất thân thiết cho mọi giới tu học xuất gia cũng như tại gia, vì cần phải có để “ trắc nghiệm” lại những “cảnh giới trải qua” khi công phu có sự tăng tiến.
Từ trước đến nay, khoảng bốn mươi năm trở lại, đã có nhiều bản Việt dịch về ba kinh này, nhưng trung thực mà nói, các bản dịch ấy thích hợp với sự khảo cứu hơn là phúng tụng. Tìm cho được một bản để làm khóa tụng thường nhật thì quả là hiếm hoi, cho nên phần nhiều chỉ tụng nguyên văn bản Hán.
Tình trạng này là một thiệt thòi lớn cho Phật tử Việt Nam. Bởi vì, biết bao nhiêu người tự cho mình theo con đường của môn Tịnh Độ, mà khi hỏi về ý nghĩa một trong ba kinh, họ rất lúng túng, không biết phải giải thích ra sao. Đến như nhiều vị tăng lữ được gọi là “có khả năng” giảng thuyết kinh giáo, song những vị ấy, ít thấy có người khai triển phát huy về Ba kinh này.
Bởi những dữ kiện như trên, chúng tôi với hoài bão đóng góp vào kinh điển Việt dịch của nước nhà cũng là cung ứng cho những vị có lòng nhiệt thành, muốn có những kinh Việt ngữ vừa gọn vừa dễ hiểu để làm nhật khóa tụng tập, chúng tôi gắng sức dịch đủ ba kinh được nói trên đây. Tuy nhiên, với sức trí cạn của kẻ phàm dung, chắc chắn không khỏi tránh điều quê vụng, mong bậc thức giả hoan hỷ bổ sung cho.
Trọng Đông năm Tân Mùi 1991
Người dịch kính ghi