Tìm Sách

Kinh Tạng >> Kinh Mi Tiên vấn đáp (Milindapanha)


Xem tại thư viện

Thông tin tra cứu

  • Tên sách : Kinh Mi Tiên vấn đáp (Milindapanha)
  • Tác giả : .
  • Dịch giả : HT. Giới Nghiêm
  • Ngôn ngữ : Việt
  • Số trang : 994
  • Nhà xuất bản : Tôn Giáo
  • Năm xuất bản : 2003
  • Phân loại : Kinh Tạng
  • MCB : 1210000009437
  • OPAC :
  • Tóm tắt :

KINH MI TIÊN VẤN ĐÁP

(MILINDAPÀNHA)

DG: Hòa thượng Giới Nghiêm

Thitasilamahàthera

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

(THERAVADA)

Nhà xuất bản Tôn giáo

PL: 2546 – DL: 2003

 

LỜI NÓI ĐẦU

Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ, nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.

Đi sâu vào những lời đối thoại, người nắm giáo nghĩa cuả Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đễ nhận ra rằng, những vấn đề được đề cập hoàng toàn là tinh yếu của Tam Tạng Pali văn, chưa hề pha tạp tư tưỡng và kiến giải của các bộ phái phát triển sau này. Do vậy, không lạ gì Phật giáo Miền điện xếp bộ kinh Milindapanha và Thánh điển, và Phật giáo Tích Lan đặt chung với năm bộ Nikàya để tôn thờ và phụng hành.

Chúng ta cần biết rằng, các bộ phái Bắc truyền cũng có phổ biến kinh này do người Trung hoa phiên dịch vào các thế kỷ sau T. L kỷ nguyên. Và hiện tại có vài bản tiếng Việt đang lưu hành rộng rãi lấy tên là “Na-tiên tỳ kheo kinh” như bản của Đoàn Trung Còn , và bản của Cao Hữu Đính, xuất bản vào năm 1971.

So sánh giữa Milindapanha Na-tiên tỳ kheo kinh của Cao hữu Đính , chúng ta thấy rằng bản dịch sau đã giản lược chưa bằng một phần ba so với bộ kinh trước; nhưng có nhiều ưu điểm là: cách phân câu, cú pháp, hành văn rõ ràng, mạch lạc, sáng sủa hơn. Tuy nhiên, nếu chịu khó đọc kỹ cả hai bổn, ta sẽ thấy Na-tiên tỳ kheo kinh đã bỏ sót trên 150 câu hỏi, lượt bớt câu hỏi, bỏ sót những chi pháp quan trọng và bỏ sót những ví dụ sống động xoay quanh một vấn đề, làm giảm sút giá trị của bộ kinh cựu truyền không ít vậy.

Ngoài ra, thật đáng tiếc hơn, Na-tiên tỳ kheo kinh lại va vấp nhiều lỗi lầm quan trọng về tinh yếu của giáo pháp, ví dụ:

* Câu 7: Yoniso manasikàra (như lý tác ý), nghĩa là khởi tâm đến đối tượng một cách đúng đắn, hợp với sự thật, mà dịch là “Nhứt tâm”!

* Câu 13: Nàma-rùpa là danh sắc mà dịch là “danh thân”! Tưởng là giống nhau nhưng “sắc”chính xác hơn nhiều. Thân (kàya) theo Abhidhamma có hằng chục nghĩa khác nhau, không đơn thuần là thân tứ đại!

* Câu 22, 23,24,25:

- Vedanàlakkhana: hành tướng của thọ, mà diễn giảng là: “cảm thọ vui là tự mình nhận biết và hưởng thọ cái vui ấy”! Xin thưa, “nhận biết” là thuộc về “tưởng”, còn “hưởng”là thuộc về ái dục, nó nằm nơi “hành”!

- Sannàlakkhana: hành tướng của tưởng mà dịch là giác, không chính xác, dễ lầm lẫn, nên dịch là tri giác: nhận biết đối tượng một cách tổng quát.

- Cetanàlakkhana: hành tướng của “tư”, mà dịch là “sở niệm”! lại còn diễn giảng: Sở niệm tức là Tư tưởng ! Xin thưa, tư chính là tư tác, nó tạo nghiệp do tham, sân, si khởi lên, nó chi phối “hành”trong ngũ uẩn.

- Vinnànalakkhama: Hành tướng của thức, thức ở đây là thức ghi nhận tiến trình kinh nghiệm từ sắc thọ, tưởng, hành…thức; mà ở đây lại nói là “nội động” thì chẳng ai hiểu ra làm sao cả ! Thế mà còn định nghĩa: nội động là cái tư tưởng mong cầu xao xuyến trong nội tâm !Suydiễn như thế thì quả là đã đi xa từ và nghĩa nguyên thủy của giáo pháp.

* Câu 26: Bản dịch nói: năm cái xúc, thọ, giác, sở niệm, nội động một khi “dung hợp”thành “nỗi lòng”rồi….

Ôi! Sao lại gọi ngũ uẩn là “nỗi lòng”?! Và sao ngũ ủng lại “dung hợp “được như các lượng vật chất? Có lẽ ai cũng hiểu rằng, ngũ uẩn chính là tiến trình sinh diệt của tâm sinh lý, và ngay chính các trạng thái tâm sinh lý cũng sinh diệt, tiếp nối tương tục không gián đoạn

Sai lầm của bản kinh Na-tiên tỳ kheo, đáng buồn thay không phải chỉ có bấy nhiêu, mà ít nhất là vài chục chỗ tương tự thế trong số sáu mươi haicâu hỏi của bản kinh này !

Nêu ra như vậy, không phải chúng tôi “cầu toàn trách bị”, bới lông tìm vết; cũng không phải chúng tôi vội quy kết những lỗi lầm trên là do dịch giả tiếng Việt, dịch giả tiếng Hán hay từ bản gốc bằng tiếng Pràkrit của phái Nhất thiết hữu bộ kết tập. Chỉ mong nhờ các bậc học giả lỗi lạc so sánh, đối chiếu để truy cứu vấn đề cho sáng tỏ hơn mà thôi.

Nhận thấy tầm mức quan trọng của bộ kinh, ngoài công việc Tam Bảo bề bộn, chúng tôi phải bỏ thời gian gần hai mươi năm để phiên dịch, trước sau phân thành ba quyển hầu cống hiến bạn đọc. Nay tuổi già sức yếu, biết tuổi thọ không còn mấy năm, chúng tôi ráng dành thì giờ soạn lại, gộp chung thành một quyển. Lần này cũng khá vất vả vì dường như chúng tôi phải làm lại từ đầu: viết lại lời tựa, chỉnh lại văn cú, lược bỏ các đoạn trùng lặp, sắp xếp lại chương mục, bỏ hết câu, chữ, kệ Pàli không cần thiết, chỉnh lại đây đó một số nghĩa, số từ cho chính xác hơn. Làm việcấy , chúng tôi xem như một bổn phận của mình, những mong hoàn thành một dịch phẩm ít lỗi lầm so với dịch phẩm trước đây để đáp đền Tam Bảo thâm ân.

Bộ kinh Milindapanha này,đúng ra phải dịch là “Mi-lin-đà sở vấn”, nhưng tên gọi cũ đã quentai, chúng tôi thấy không cần thiết phải sửa lại.

Về tên gọi của hai ngài, Nàgasena, chúng tôi dùng tên phổ thông là “Na-tiên tỳ kheo”, và Milinda, chúng tôi âm là “Mi-lan-đà”. Các đoạn đối thoại giữa hai vị, chúng tôi ghi “-“ ở đầu dòng cho gọn.

Dẫu đã rất nhiều cố gắng, nghiêm túc và nhiệt tâm, chúng tôi cũng không sao tránh khỏi những khuyết điểm sau đây:

* Để hợp với tư duy người Việt, văn Việt nên đôi chỗ phải phỏng dịch, phóng tác mà vẫn trung thành với câu chuyện, với giáo pháp.

* Chúng tôi đã tự ý bỏ tất cả ấn phẩm, chỉ ghi thứ tự câu hỏi để cho độc giả tiện theo dõi.

Cốt ý của chúng tôi là muốn phổ biến một tư liệu quý hiếm rất gần với giáo pháp uyên nguyên , giải đáp, tháo gỡ những thắc mắc cho kẻ hoài nghi để phá bỏ sở tri chướng cho người tu Phật. Chỉ chừng ấy thôi thì công năng diệu dụng của “Mi-tiên vấn đáp” thật là bất khả tư nghì rồi.

Xin các bậc cao minh hoan hỷ chỉ giáo cho để lần tái bản được hoàn bị hơn.

                                                                                       Mong thay

                                                                                       Phật Bảo Tự - Phú Thọ Hòa

                                                                                       Mùa An cư 1982-PL.2526

                                                                                       Tỳ khưu Giới Nghiêm

                                                                                       (Thitasilo Bhikkhu)

 

 

MỤC LỤC

 

TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM

Lời nói đầu

Kệ lễ bái Tam bảo

Chương mục

I. PHẦN DẪN NHẬP

1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)

2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa Yoga)

2.1 Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ

2.2 Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN

2.3 Thấp thoáng bóng Sư Tử

II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP

1. Danh

2. Con số hạ lạp

3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả

4. Thỉnh mời vào Hoàng cung

5. Cứu cánh của Sa môn hạnh

6. Tái sanh – Vô sanh

7. Chú tâm

8. Hành tướng của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng

9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sớ y

10. Hành tướng của Tín

11. Hành tướng của Tấn

12. Hành tướng của Niệm

13. Hành tướng của Định

14. Hành tướng của Tuệ

15. Ngũ căn – riêng và chung

16. Tương quan thân trước và sau

17. Tái sanh và vô sanh

18. Trí tuệ

19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không?

20. Cảm thọ

21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh ?

22. Không nên hỏi lại câu hỏi đã hỏi

23. Danh sắc tương quan liên hệ

24. Thời gian và không còn thời gian

25. Nguyên nhân của thời gian

26. Thời gian tối sơ ?

27. Có rồi không ! không rồi có

28. Pháp hành thì sao ?

29. Tự nhiên sanh ?

30. Tự ngã trong thân ?

31. Hãn thức và tâm thức

32. Hành tướng của Xúc

33. Hành tướng của Thọ

34. Hành tướng của Tướng

35. Hành tướng của Tác Ý

36. Hành tướng của Thức

37. Hành tướng của Tầm

38. Hành tướng của Tứ

39. Lại hỏivề “Chú tâm”

40. Những tâm sở đồng sanh

41. Về năm giác quan

42. Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp

43. Sớm ngăn ngừa điều ác

44. Lửa địa ngục

45. Nước dựa khí

46. Niết bàn

47. Ai sẽ đắc Niết bàn

48. Làm sao biết Niết bàn là tối thượng lạc

49. Có Phật không?

50. Phật là tối thượng tôn bảo

51. Phật tối thắng như thế nào?

52. Thấy Phật

53. Khi chết ngũ uẩn diệt theo

54. Vedagù?

55. Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp

56. Nghiệp trú ở đâu

57. Biết còn tái sanh?

58. Phật ở đâu?

59. Thương yêu cái thân?

60. Bậc toàn giác biết tất cả

61. Tại sao Phật không giống cha mẹ Ngài

62. Thực hành Phạm hạnh (Brahmacàri)

63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?

64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược?

65. Tham luyến và dứt tham luyến

66. Trí tuệ ở đâu?

67. Luân hồi

68. Trí nhớ

69. Ai cũng có trí nhớ

70. Có bao nhiêu loại trí nhớ

71. Tương quan phước và tội

72. Diệt khổ chưa đến?

73. Cõi Phạm Thiên bao xa?

74. Thời gian tái sanh

75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia

76. Vào cửa nào để đầu thai

77. Nhân sanh giác ngộ

78. Diều lành nhỏ, phước quả lớn. Điều ác lớn, tội báo nhỏ

79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ. Người ngu làm điều ác tội báo lớn

80. Bay bằng thân

81. Xương dài 100 so tuần

82. Biến

83. Ngưng hơi thở

84. Pháp xuất thế gian

85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu

86. Thức, tuệ và sanh mạng

88. Thì giờ phải lẽ rồi

89. Phật và chư tăng ai phước báu nhiều hơn

SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA

90. Lễ bái, cúng dường xá lợi, kim thân Phật, cây Bồ đề…không có phước báu!

91. Đức Phật có toàn giác không?

92. Đức Thế Tôn có tâm Đại bi hay không?

93. Nghi vấn về sự bố thí Ba-la-mật

94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn

95. Hoài nghi về sự thụ thai

96. Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại

97. Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không?

98. Đức Thế Tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa?

99. Tại sao Đức Thế Tôn không dùng “tứ thần túc”để duy trì thọ mạng

100. Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được hoàn hảo?

101. Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tôn làm thinh không trả lời?

102. Chúng sanh sợ hãi diêm chúa?

103. Tụng kinh Paritta thật không có lợi ích!

104. Oai lực của Đức Phật thua Ma vương?

105. Vì Đức Phật thuyết pháp mà làm cho sáu mươi vị tỳ kheo hộc máu chết!

106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?

107. Giáo hội của Đức Tôn sư có bị phân ly, chia rẽ không?

108. Tỳ kheo tạo nghiệp do không biết, tại sao lại không có tội?

109. Đức Thế Tôn có lãnh đạo, bảo quản giáo hội tỳ khưu không?

110. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc lục căn?

111. Sao Đức Thế Tôn có lời nói khiếm nhã?

112. Cái cây có tâm lý không?

113. Bữa cơm của Cunda có vấn đề!

114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai?

115. Quả đất dường như có tâm thức?

116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường?

117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắc đạo?

118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn

119. Thế nào gọi là Sa môn?

120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam bảo?

121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ?

122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận!

123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?

124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào?

125. Đời sống Sa-môn vô tư, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất liêu?

126. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng?

127. Đức Phật muốn che dấu Pháp?

128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối!

129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử của mình?

130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đượng cự nổi thần lực của kẻ giết ngài?

131. Kiép áp chót, tại cung trời Đâu Suất, Đức Bồ-tát quán sát thế gian để làm gì?

132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?

133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại?

134. quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng

135. Sự tà hạnh của người nữ?

136. Các vị A la hán còn sợ hãi?

137. Đức Phật dạy cắt đứt sợ hãi?

138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng?

139. Đức Thế Tôn là người khai sáng đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa?

140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn?

141. Tại sao có đắc quả nhanh, chậm khác nhau?

142. Về cư sĩ A-la-hán?

143. Tại sao Bồ-tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ?

144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa – mà bồ tát Jotipàla lại nhiếc mắng

         “sa môn trọc đầu”?

145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm?

146. Tại sao có lúc Đức Phật lại xưng mình là Bà-la-môn, có khi xưng mình là vua?

147. Tại sao không có hai Đức Phật xuất hiện một lần?

148. Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội thanh tịnh của Đức –Bổn sư

149. Thân thọ khổ, tâm có thọ khổ?

150. Giải thêm về “tâm không động”

151. Người đã phạm “bất cộng trụ” xin tu lại, có đắc được đạo quả không?

152. Cư sĩ phá giới và sa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao?

153. Nước có sanh mạng chăng?

154. trùng câu 141

155. Trên thế gian này cái gì không sanh?

156. Bậc A-la-hán còn phạm giới?

157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh?

158. Trùng câu 157

159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa?

160. Tại sao Đức Thế tôn không cấm chế giới luật một lần?

161. mặt trời có bệnh không?

162. Lại bệnh của mặt trời nữa!

163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con!

164. Chư Phật quá khứ có tu khổ hạnh không?

165. Năng lực của thiện và ác nghiệp cái nào mạnh hơn?

166. Hồi hướng phước có hiệu quả không?

167. Hồi hướng ác có được không?

168. Tại sao có chiêm bao?

169. Chết đúng thời và chết không đúng thời

170. Tại sao nhập Niết bàn lại có hiện tượng phi thường?

171. Chúng sanh nào có khả năng đắc đạo?

172. Niết bàn có xen lẫn khổ?

173. Tại sao không diễn tả Niết-bàn một cách cụ thể?

174. Làm sao rõ Niết-bàn

175. Niết bàn không ở đâu cả!

176. Có ai thắng Phật không?

177. Đầu đà khổ hạnh có ích lợi gì?

NHỮNG CÂU HỎI VỀ VÍ DỤ

178. Về con lừa

179. Về con gà

180. Về con sóc

181. Về con cọp cái

182. Về con cọp đực

183. Về con rùa nước

184. Về cái kèn

185. Về cây súng

186. Về con quạ

187. Về con khỉ

188. Về dây bầu leo

189. Về hoa sen

190. Về hạt giống

191. Cây Sàla xanh tốt

192. Về chiếc thuyền

193. Về ghe thuyền dính đá ngầm

194. Về cột buồm

195. Về người cầm lái thuyền

196. Về người làm công

197. Về biển cả

198. Về quả đất

199. Về nước

200. Về lửa

201. Về gió

202. Về núi

203. Về hư không

204. Về mặt trăng

205. Về mặt trời

206. Về trời Đế thích

207. Về chuyển luân Thánh vương

208. Về con mối

209. Về con mèo

210. Về con chuột

211. Về con bọ cạp

212. Về con chồn

213. Về chó rừng

214 Về con nai

215. Về con bò

216. Về con heo

217. về con voi

218. Về sư tử

219. Về vịt nước

220. Về chim Venàhikà mái

221. Về chim sẻ

222. Về chim cu

223. Về con rít

224. Về con dơi

225. Về con đỉa

226. Về con rắn

227. Về con trăn

228. Về nhện giăng lưới

229. Về hài nhi

230. Về rùa vàng

231. Về rừng

232. Về cây đại thọ

233. Về mưa

234. Về ngọc mani

235. Về người săn bắn

236. Về người câu cá

237. Về thợ bào gỗ

238. Về người thợ gốm

239. Về con quạ

240. Về cái dù

241. Về đám ruộng

242. Thuốc trị độc rắn

243. Về vật thực

244. Về người bắn cung

III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP

Kính cáo

Thi điếu

Mục lục

Các sách khác thuộc Kinh Tạng

Đại Thừa Kim Cang Kinh luận
Đại Thừa Kim Cang Kinh luận
Kinh Trường A Hàm (DIRGHÀGAMA)
Kinh Trường A Hàm (DIRGHÀGAMA)
Họa Tập: Mười hai lời nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm
Họa Tập: Mười hai lời nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm
Đại Bát Niết Bàn Kinh
Đại Bát Niết Bàn Kinh
Nghi thức tụng niệm hằng ngày
Nghi thức tụng niệm hằng ngày
Kinh Lăng Nghiêm
Kinh Lăng Nghiêm
Văn cảnh sách của Tổ Qui Sơn
Văn cảnh sách của Tổ Qui Sơn