VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LÊ MẠNH THÁT
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẬP III
TỪ LÝ THÁNH TÔNG (1054) ĐẾN TRẦN THÁNH TÔNG (1278)
NXB. TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PL. 2549 – 2005
Thay lời tựa
Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập III viết về giai đoạn những người Phật giáo Việt Nam tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước sau khi đã thu hồi được độc lập. Giai đoạn này có những nét đặc trưng. Thứ nhất là sự xuất hiện của dòng thiền, mà trong đó hơn một nửa số thiền sư đắc pháp là các phật tử tại gia đang gánh vác công việc đất nước. Thứ hai, cũng chính trong giai đoạn này ta cũng sẽ tìm hiểu thái độ của người Phật giáo trong khi đất nước đang rơi vào khủng hoảng, nhà Lý đang mất dần quyền hành để cuối cùng nhường ngôi lại cho nhà Trần và vai trò của Phật giáo lúc nhà Trần xuất hiện.
Đối với tập III này , chúng tôi xin bổ sung một số thông tin cho Lịch sử Phật giáo Việt Nam II.
Về đạo tràng Bảo An, văn bia có nhan đề Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đại tràng bi văn lần đầu tiên ghi nhận sự tồn tại của một tổ chức Phật giáo mang tên đạo tràng Bảo An do một người đứng đầu vùng Cửu Chân tên Lê Hầu. Tấm bia này do Kiểm hiệu Giao Chỉ quận , tán trị Nhật Nam quận thừa, tiền kiêm nội sử xá nhân Nguyên Nhân Khí người Hà Nam soạn vào năm Tùy Đại Nghiệp 14 (618). Tấm bia hiện được đưa về lưu giữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử Hà Nội. Hiện chữ đã mờ nhiều nên rất khó đọc.
Tuy nhiên, không phải đến thế kỷ XX người ta mới phát hiện tấm bia ấy. Nó đã được tìm thấy vào những thập niên đầu của thế kỷ XVIII, mà bằng chứng là bản sao văn bia do một viên chức tổng Thạch Khê huyện Đông Sơn , phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa thực hiện vào năm Vĩnh Khánh thứ ba (1731). Bản này đến năm 1962 đã được Chu Văn Liên chép lại dưới tên Tùy thời đại nghiệp bi văn, hiện lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, có ký hiệu VHv.2369. Đến giữa thế kỷ XIX, cụ thể là vào năm Thiệu Trị thứ hai (1842) , các viên chức của bốn xã Phù Liễn, Đồng Phổ, Vạn Lộc và Hữu Bộc của tổng Thạch Khê đã dựa theo văn khắc trên bia và bản sao năm Vĩnh Khánh để chép lại.
Nhờ thế, chúng ta hiện nay có thể biết được đôi nét về nội dung của văn bia này. Theo văn bia thì vào đầu thế kỷ thứ VII , người đã “tùy cơ lợi vật “ làm cho mọi người hướng về tịnh độ là một vị tên Lê Hầu. Vị họ Lê này theo bia văn là một người đã từng làm Đề đốc quân sự các châu Ái, Đức, Minh, Lợi, Hoan và giữ chức thứ sử châu Ái, được phong Mục Phong Hầu. Dáng chừng vị thứ sử họ Lê ấy đã ba đời giữ chức ấy tại Cửu Chân. Về học thuật thì đã lưu tâm đến Phật giáo, lối sống gia đình thì dùng lễ sám. Có con trưởng là Ích Từ kế nghiệp cha làm Thứ sử (?). Tuy nhiên, căn cứ vào bài minh với những câu:
Lê hoàng linh trụ
Tứ hải du đồng
Khâm minh ngự điện
Tu tạo huân nhung
Mỹ tai dục thu (mục?)
Tâm tồn thiệu long
Thì rõ ràng với những chữ Lê hoàng, tử hài du đồng thì có khả năng vị họ Lê này đã từng làm vua, làm lãnh tụ. Thực tế, dựa vào sử liệu nước ta, cụ thể là Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời gian Đại Nghiệp của Tùy Dạng Đế ta không thấy có nhà cầm quyền nào dù phía ta hay phía địch ở nước ta có tên họ Lê. Tuy nhiên, nếu đọc lại sử liệu Trung Quốc, cụ thể là Tùy thư, thì đúng là sau khi Lý Sư Lợi bị Lưu Phương dụ hàng vào năm 602, Tùy thư còn ghi nhận cuộc khởi nghĩa của Lê Xuân. Phải chăng người anh hùng Lê Xuân là vị anh hùng này của đạo tràng Bảo An. Ta ngày nay không có một chứng cớ ngoại tại nào. Song một giả thiết như thế không thể không khả hữu, đặc biệt là khi ta kết nối với sáu câu minh vừa dẫn.
Có thể là Lê Xuân, sau khi chính quyền Vạn Xuân do Lý Sư Lợi đứng đầu bị Lưu Phương phá vỡ, đã tiếp tục sự nghiệp độc lập của Lý Nam Đế. Việc những người Phật giáo vào thế kỷ ấy đứng lên giành độc lập cho đất nước là một điều khó có thể chối cãi. Ta đã thấy trườnghợp Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, những anh hùng của nhà nước Vạn Xuân hầu hết đều xuất thân từ Phật giáo. Nhất là khi Phật giáo đã trở thành một lực lượng quần chúng đông đảo thì sự nghiệp vận động độc lập không thể không dựa vào lực lượng quần chúng đông đảo ấy. Đây có thể là một chứng cớ ngoại tại khác giúp cho ta xác định và đồng nhất vị Phật tử họ Lê của đạo tràng Bảo An với lãnh tụ khởi nghĩa Lê Xuân. Dù với trường hợp nào đi nữa, thì vào đầu thế kỷ thứ VII, Ái châu đã trở thành một trung tâm lớn của Phật giáo Việt Nam. Với một nền Phật giáo có tổ chức kiểu như đạo tràng Bảo An, mà văn bia này nói tới, có thể vào đầu thế kỷ thứ VII, Ái châu đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn nên đến cuối thế kỷ ấy và thế kỷ sau đả sản sinh ra những khuôn mặt anh tài như Đại Thừa Đăng, Trí Hành, và thượng nhân Vô Ngại . Khi bài minh dùng cụm từ “Tâm tồn thiệu long” viết về người Phật tử họ Lê này thì rõ ràng nền Phật giáo Ái châu đã có những Phật tử có tâm huyết với sự tồn vong của Phật giáo, hết lòng hết sức phát triển Chánh đạo.
Thiệu long là gọi tắt của cụm từ “thiệu long thánh chúng”, nghĩa là nối mạch giống thánh. Ý nghĩa thật rõ ràng, cụm từ này thường dùng để chỉ những người xuất gia dành trọn đời mình để phục vụ sự nghiệp duy trì và truyền bá Phật giáo. Ở đây ta lại thấy dùng cho một vị lãnh đạo thế quyền. Quan điểm phát triển Phật giáo vào thế kỷ thứ VII như thế vẫn tiếp tục truyền thống sống đạo của Phật giáo Việt Nam, mà Đạo Cao đã nêu lên. Đó là không phải đợi “ngồi thiền nơi rừng rú, làm phước bên cạnh thành”mới là Phật sự, mà ngay cả “ca hát tụng vịnh” cũng là “việc Phật”. Đây phải nói là một quan điểm hết sức phóng khoáng, tạo điều kiện cho mọi người tham gia và duy trì chánh pháp.
Một đặc điểm khác cần lưu ý của văn bia là lần đầu tiên cụm từ tịnh độ đã được sử dụng. Tư tưởng tịnh độ như thế vào đầu thế kỷ thứ VI đã được phổ biến rộng rãi. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi ta nhớ rằng gần 200 năm trước Đàm Hoằng đã từ Trung Quốc đến Tiên Sơn để học lối tu tịnh độ ở Việt nam và người Phật tử họ Lê này, qua văn bia, hình như là một trong những người chủ trương tịnh độ sớm nhất mà ta biết đến của nước ta. Tư tưởng tịnh độ ở Việt Nam như vậy đã phổ biến rộng rãi trong các giới Phật tử tại gia. …
Vạn Hạnh
Mùa đông năm Tân Tỵ (2001)
LÊ MẠNH THÁT
MỤC LỤC
Thay lời tựa
CHƯƠNG I
VUA LÝ THÁNH TÔNG VÀ DÒNG THIỀN THẢO ĐƯỜNG
LÝ THÁNH TÔNG LÊN NGÔI
VỀ THÁP BÁO THIÊN
VIỆC DỤNG VĂN MIẾU
VẤN ĐỀ BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC
VẤN ĐỀ BIÊN CƯƠNG PHÍA NAM
VỀ TĂNG THÔNG LÂM HUỆ SINH
CHƯƠNG II
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ ĐẠI SƯ PHÁP BẢO HẢI CHIÊU
VỀ TUỔI TRẺ LÝ THƯỜNG KIỆT
CHIẾN DỊCH ĐÁNH CHIÊM THÀNH NĂM 1069
CUỘC TIẾN CHIẾM CÁC KHÂU KHÂM, LIÊM VÀ UNG NĂM 1075
CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC NĂM 1077
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ ĐẠI SƯ PHÁP BẢO
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ ĐẠI SƯ MÃN GIÁC
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ ĐẠI SƯ ĐẠO DUNG
CHƯƠNG III
THÁI HẬU Ỷ LAN VÀ QUỐC SƯ THÔNG BIỆN
CUỘC ĐỜI THÁI HẬU Ỷ LAN
VỀ QUỐC SƯ THÔNG BIỆN
VỀ BÀI KỆ NGỘ ĐẠO CỦA THÁI HẬU Ỷ LAN
CHƯƠNG IV
VUA LÝ NHÂN TÔNG VÀ PHẬT GIÁO THẾ SỰ
VỀ CUỘC ĐỜI VUA LÝ NHÂN TÔNG
QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO CỦA VUA LÝ NHÂN TÔNG
VỀ QUANG TRÍ VÀ CHÂN KHÔNG
VỀ QUỐC SƯ VIỄN THÔNG
CHƯƠNG V
TỪ ĐẠO HẠNH CỦA VUA LÝ NHÂN TÔNG
VỀ QUAN HỆ CỦA THIỀN SƯ TỪ ĐẠO HẠNH VÀ VUA LÝ NHÂN TÔNG
CUỘC ĐỜI TỪ ĐẠO HẠNH
ĐẠO HẠNH TRẢ THÙ CHA
ĐẠO HẠNH TẦM SƯ
VỀ SÙNG PHẠM
VỀ VỤ VIỆC GIÁC HOÀNG
CHƯƠNG VI
KHÔNG LỘ VÀ GIÁC HẢI
CUỘC ĐỜI KHÔNG LỘ
KHÔNG LỘ VÀ CHUÔNG CHÙA NÚI PHỐ LẠI
TƯ TƯỞNG VÀ VỊ TRÍ VĂN HỌC CỦA KHÔNG LỘ
VỀ GIÁC HẢI
CHƯƠNG VII
DIỆU NHÂN VÀ PHONG TRÀO NỮ PHẬT TỬ
VỀ NI SƯ DIỆU NHÂN
VỀ PHỤNG THÁNH PHU NHÂN
VỀ TƯ TƯỞNG DIỆU NHÂN
CHƯƠNG VIII
HÀ HƯNG TÔNG VÀ PHẬT GIÁO VÙNG BIÊN CƯƠNG
PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG DÂN TỘC ANH EM
VỀ CHÂU VỊ LONG
VỀ HỌ HÀ VÀ BÁO NINH SÙNG PHÚC TỰ BI
CHƯƠNG IX
ĐẠO HUỆ VÀ TƯ TƯỞNG SẮC KHÔNG
VỀ BIỆN TÀI VÀ KHÁNH HỶ
ĐẠO HUỆ VÀ TƯ TƯỞNG SẮC KHÔNG
VỀ NGỘ ÁN
VỀ MINH TRÍ
VẾ QUẢNG NGIÊM
CHƯƠNG X
TRƯỜNG NGUYÊN VÀ THƯỜNG CHIẾU
TRƯỜNG NGUYÊN VÀ QUAN NIỆM “TẠI QUANG TẠI TRẦN”
VỀ BẢO GIÁM
VỀ TỊNH GIỚI
THƯỜNG CHIẾU VỚI CHỦ TRƯƠNG TÙY TỤC
VỀ TƯ TƯỞNG TÙY TỤC
CHƯƠNG XII
VUA TRẦN THÁI TÔNG VÀ QUỐC SƯ PHÙ VÂN
VUA TRẦN THÁI TÔNG VÀ QUỐC SƯ PHÙ VÂN
VỀ Ý MUỐN VÀ TẤM LÒNG CỦA THIÊN HẠ
VỀ CUỘC CHIẾN TRANH NĂM ĐINH TỴ
VỀ KHÓA HƯ LỤC
VỀ TƯ TƯỞNG TRẦN THÁI TÔNG
CHƯƠNG XIII
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ VÀ VUA TRẦN THÁNH TÔNG
VỀ TUỆ TRUNG, TRẦN TUNG
VỀ TƯ TƯỞNG “HỔN TỤC HÒA QUANG”
VỀ VUA TRẦN THÁNH TÔNG
Sách dẫn