LỜI NGƯỜI DỊCH
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, sinh năm 1935, tại sơn thôn Takster, miền Đông Bắc Tây Tạng, được nhân dân Tây Tạng sùng bái như một vị Phật sống, hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Đối với người Tây tạng thì ngài sinh ra để làm Phật vương và lãnh đạo tối cao về thế quyền và giáo quyền ở đất nước này. Ngài được công nhận là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 (viên tịch vào năm 1933) và ngay sau đó được tấn phong làm Dalai Lama thứ 14, lúc chỉ mới lên 4 tuổi.
Tuy nhiên ngài đã thừa kế tước vị Dalai Lama trong một giai đoạn bấp bênh nhất của toàn bộ lịch sử voiứ danh hiệu cao quý này, vì Trung Cộng đã cưỡng chiếm Tây Tạng và ngài đã đến tỵ nạn ở tiểu bang Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ từ năm 1959. Từ đó, ngài đã ủng hộ triệt để cho chính sách bất bạo động, ngay cả những lúc đối đầu với những cuộc tấn công khủng khiếp nhất. Chính vì thế mà năm 1989, ngài được trao giải thưởng Nobel về hòa bình và hiện nay, cũng trong thân phận người tỵ nạn, ngài thường xuyên đi đến nhiều miền đất trên thế giới để kêu gọi hòa bình, và khi có thể, ngài nói lên tiếng nói tự do giải phóng cho dân tộc Tây Tạng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã vượt qua những ngăn cách của địa lý, tôn giáo và chính trị bằng đạo phong oai nghiêm, giản dị, sâu sắc và giàu lòng từ bi của mình. Trong những bài giảng và những lần đi vòng quanh thế giới, mọi người đều cảm mến và kính phục. Với bài viết “Từ bi và Nhân cách” sau đây, ngài đã giải thích rõ ràng và chí lý tại sao lòng từ bi không thể tách rời khỏi con người và cuộc sống. Và hơn lúc nào hết là chính lúc này, chúng ta rất cần sử dụng và phát triển đức tính tự nhiên ấy, vốn vẫn đang tiềm ẩn trong mỗi con người của chúng ta.
Tập sách nhỏ này được ấn hành để thể hiện lòng tôn kính và ngưỡng mộ của người dịch đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, ngài viếng thăm Úc châu vào trung tuần tháng 5 năm 2002 này, đây là món quà khiêm tốn để dâng tặng đến Người và cũng để chia xẻ bức thông điệp tình thương của Người đối với cộng đồng nhân loại đang sống trong cảnh hận thù, bạo động, chia rẻ và khổ đau.
Melbourne, Mùa Phật Đản 2002
TK. Thích Nguyên Tạng